Chương 2: Cải tạo tư tưởng một cách hệ thống : Phê phán quan niệm truyền thống


“Thiên hành Kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức”, “Địa thế Khôn, quân tử hậu đức tải vật” (Trời hành Kiện, quân tử không ngừng cố gắng vươn lên; Địa thế Khôn, quân tử đức dày chở vật), Hai quẻ đầu trong “Kinh dịch” đã chỉ ra được thái độ của người Trung Quốc với trời đất, quân tử thuận Thiên đạo mà hành mới có thể không ngừng vươn lên, dùng  đạo đức nhu thuận mà sâu sắc có bề dày để chứa đựng vạn vật. Đối với người thì thành tín hòa thuận, từ mình mà hiểu lòng người, từ sự tôn kính với người già và sự yêu thương bảo vệ với trẻ nhỏ trong nhà mà mở rộng ra tới tất cả người già và trẻ nhỏ, chính là điều gọi là “Giảng tín tu mục” (dạy điều tín, ăn ở hòa thuận), “Lão ngô lão dĩ cập nhân chi lão, ấu ngô ấu dĩ cập nhân chi ấu”(Tôn kính người già nhà ta, cho đến người già trong nhà người, yêu mến trẻ nhà ta, cho đến yêu mến trẻ nhà người). Khi Tam Tài – “Thiên Địa Nhân” được định ra, thì căn bản của quan niệm truyền thống được định ra như vậy.

Người Trung Quốc kính Thiên, kính Địa, kính Thần, kính tổ tiên do đó đã hình thành một đạo xử thế trong cuộc sống đời thường, truyền lại cho muôn đời sau.

Còn Đảng Cộng sản lại “phải thực hiện việc cắt đứt đối với quan niệm truyền thống một cách triệt để dứt khoát nhất.” (Tuyên ngôn Đảng Cộng sản). Việc nó phê phán quan niệm truyền thống, là một bước tất yếu nhằm triệt để thanh trừ Văn hóa truyền thống cho đến tín ngưỡng trong cuộc sống của người dân Trung Quốc.

Từ khi Trung Cộng bắt đầu xây dựng chính quyền, nó đã thông qua giáo dục “Lịch sử phát triển xã hội” để tẩy não toàn dân một cách có hệ thống, quy kết “sự lạc hậu”, “ngu dốt” của Văn hóa truyền thống là nguyên nhân khiến Trung Quốc bị cường quốc xâm lược gần 100 năm qua, miêu tả xã hội truyền thống thành “xã hội cũ” “thối nát, lạc hậu”, dán nhãn “ngu dốt và mê tín” cho tín ngưỡng trong quan niệm truyền thống, dán nhãn cho đạo đức truyền thống trong đó là “lễ giáo ăn thịt người”. Theo cách như vậy, Trung Cộng đã lợi dụng tâm lý tự tôn dân tộc và nguyện vọng tự cường của người Trung Quốc mà toàn diện phát động cái gọi là cuộc vận động phá bỏ “mê tín phong kiến” trong xã hội, lấy khẩu hiệu “di phong dịch tục” (thay đổi phong tục), tiêu diệt tất cả những hoạt động dân gian liên quan tới tín ngưỡng truyền thống. Đồng thời Trung Cộng còn gán cho quan niệm truyền thống là công cụ chính trị giúp “kẻ thống trị phong kiến” mê hoặc nhân dân, “khiến họ bằng lòng với cuộc sống bị bóc lột”, phê phán trật tự xã hội truyền thống thành “chế độ dòng tộc phong kiến” áp bức bách tính, là cộng hưởng với “chế độ phong kiến chuyên chế”, khiến những cuộc vận động nhổ tận gốc Văn hóa truyền thống dâng lên thành cao trào chính trị, như vậy có thể thông qua các cuộc vận động quần chúng quy mô lớn mà “giám sát”, “tiết lộ”, “tố giác” những ngôn từ và hành vi theo quan niệm truyền thống vẫn lưu giữ trong dân gian, đạt được mục đích triệt để diệt tận gốc.

Dưới đây là một vài ví dụ về việc những quan niệm truyền thống bị Trung Cộng phê phán.

1) Phê phán việc kính sợ Trời

Người dân Trung Quốc vẫn luôn bảo trì tâm kính sợ đối với Trời. Dù những người không có tín ngưỡng rõ ràng cũng tin vào “ông Trời”. Trong quan niệm truyền thống của người Trung Quốc, Trời dù vô hình vô tướng, nhưng không chuyện gì không biết, không nơi nào không tồn tại.


Ảnh: Epoch Times

Khi vương triều mạt thế hoặc đạo đức trụy lạc phổ biến trong xã hội, Trời liền giáng xuống tai họa, trước đó cũng sẽ có sự cảnh cáo hay điều gọi là “Thiên thùy tượng, kiến cát hung, thánh nhân tắc chi”(Nhìn thiên tượng biết điềm hung cát, thánh nhân thuận theo điều đó). Sau khi Hoàng Đế đăng cơ phải làm lễ tạ ơn Trời, ngày rằm tháng Giêng hàng năm và ngày Đông chí, Vua phải đăng đàn bái Trời, điều này đều thể hiện sự tôn sùng với Trời.

Trong sinh hoạt chính trị, “Trời” biểu thị cho phép tắc trị quốc, Khổng Tử nói “Vi chính dĩ đức, thí như bắc thần, cư kỳ sở nhi chúng tinh củng chi” (Dựa vào đức mà cai trị quốc gia, giống như sao Bắc Cực vậy, ở một chỗ mà các ngôi sao khác phải xoay quanh). Trong sinh hoạt thường nhật, “mật thất tư ngữ, thiên văn như lôi” (Nói thầm trong mật thất, Trời nghe như sấm dậy), binh pháp, kiến trúc, nhạc khí cũng đều thể hiện quy tắc của Trời, ngay cả tạo phản cũng phải làm ra lá cờ lớn “thay Trời hành đạo”.

Đối với Trời, trong quan niệm truyền thống từ trước đến giờ chỉ có sự kính sợ, còn chỉ có Đảng Cộng sản mới tranh đấu với “Trời”.

Sự kính sợ Trời duy hộ đạo đức của con người, quan niệm “nhân mệnh quan thiên” (số mệnh con người liên quan tới Trời) duy hộ cho sự quý trọng đối với sinh mệnh, quan niệm “Thiên nhân hợp nhất” lại rất hữu hiệu trong việc bảo hộ tự nhiên. Đây đều là những chướng ngại ngăn Đảng Cộng sản giết người và hủy hoại môi trường, còn Trung Cộng lại cần dựa vào thủ đoạn giết người khiến con người khiếp sợ mà quy phục nó, phải dùng những lời đao to búa lớn “chiến thiên đấu địa” để kích động con người sùng bái nó và quyết tâm phá hoại tự nhiên.

Mao Trạch Đông nói: “Ta là hòa thượng che ô, vô Pháp vô Thiên.” “Vô Pháp vô Thiên” vốn mang nghĩa xấu lại trở thành ca ngợi sự dũng cảm, và cổ động con người tham dự vào cuộc đấu tranh chính trị “vô Pháp vô Thiên” và phá hoại môi trường.

2) Phê phán sinh mệnh và thiện ác báo ứng

Từ quan niệm kính sợ “Trời” của người Trung Quốc đã phái sinh ra “thiên mệnh” quan và “thiện ác báo ứng”.

“Nhận mệnh” là câu mà người Trung Quốc thường nói, lại bị Trung Cộng giải thích là sự tiêu cực và không biết nên làm thế nào khi gặp phải khó khăn. Thực tế, ý nghĩa chân thực của “nhận mệnh” là “làm hết sức mình và nghe theo Thiên mệnh” hoặc “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”. Khổng Tử đề xuất “Sinh tử hữu mệnh, phú quý tại Thiên”, nhưng khi 54 tuổi ông lại từ chức Đại Tư Khấu của nước Lỗ, 14 năm chu du liệt quốc ông thúc đẩy vương đạo, biết rõ rằng điều đó không thể làm nhưng vẫn cứ làm. Ở đây không hề mang hàm nghĩa tiêu cực lánh đời.

Trong cuộc sống cá nhân, tư tưởng “nhận mệnh” (thừa nhận vận mệnh) hoàn toàn không phủ định sự phấn đấu của cá nhân, chỉ là giải thích cho sự bất khả kháng trong kiếp nhân sinh. Nói sâu thêm một bước nữa, quan niệm truyền thống cho rằng vận mệnh của con người được quyết định bởi đời trước, thậm chí là thiện báo hay ác báo nhận được do vài đời trước đã hành thiện hay hành ác. Do đó, “vận mệnh” cũng thường có quan hệ với “thiện ác hữu báo”, “phúc báo”, “quả báo”.

Trong “Kinh Dịch” có nói: “Tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh; tích bất thiện chi gia, tất hữu dư ương” (Nhà mà tích thiện, phú quý ắt có thừa, nhà mà tích điều không thiện, tai ương ắt có thừa). Quan niệm này khiến con người nỗ lực hành thiện, tích góp công đức cho cuộc sống sau này của mình, thậm chí là con cháu đời sau. “Thiện ác hữu báo” cũng dựa trên cơ sở những quan niệm như “Trên đầu ba thước có Thần linh”, “Nhân gian thì thầm, Trời nghe như sấm; phòng tối tâm đen, Thần nhãn như điện” v.v..

Tin vào vận mệnh và báo ứng khiến con người nỗ lực hành thiện, xem nhẹ dục vọng, thuận Thiên mà hành, không vì cái khoái lạc trước mắt mà không lường tới hậu quả. Tư tưởng này càng khiến con người tin rằng trong cõi u mê có Thiên ý, “Nhân tâm sinh nhất niệm, Thiên địa tất tương tri, Thiện ác nhược vô báo, Càn khôn tất hữu tư” (Nhân tâm sinh nhất niệm, thiên địa đều biết rõ. Thiện ác nếu không báo, Càn khôn ắt hữu tư).

Với sự thay triều đổi đại, kể từ khi Trung Quốc có chữ viết tới nay đã không ngừng lưu lại dự ngôn về những sự kiện lịch sử lớn của đời sau, mức độ chuẩn xác của nó đã khiến con người vô cùng kinh ngạc và tán thán. Thiên mệnh quan “Phụng thiên thừa vận” này cũng là ngọn nguồn cho tính hợp pháp cầm quyền của vua chúa.

Trung Cộng lại phê phán “vận mệnh” và “báo ứng” là “mê tín phong kiến” và cấm diễn xuất tuyên truyền những vở kịch có chủ đề này. Căn cứ của nó là giả thuyết về “Thuyết vô Thần” và “Chủ nghĩa duy vật lịch sử” vốn không thể nào chứng thực được. Trung Cộng hiểu rất rõ một điều là nếu một người sợ bị báo ứng, người đó quyết không dám theo Trung Cộng hành ác mãi được.

3) Phê phán sự nhu thuận và nhẫn nhịn

“Nhu thuận lợi trinh, quân tử du hành” (Kinh Dịch) dùng quẻ “Khôn” để miêu tả đại địa. Đại địa có đức “nhu thuận”. Tính nhu thuận này không phải là cúi đầu nhẫn nhục một cách vô nguyên tắc, mà là thuận theo Thiên đạo mà hành.

Trong “nhu thuận” có đức “nhẫn nhượng”, “nhẫn một lúc sóng yên gió lặng, lùi một bước biển rộng trời trong.” Điển cố Hàn Tín chịu nhục chui háng đã lưu truyền hơn 2.000 năm, điều này đều phản ánh sự tôn sùng của người Trung Quốc với chữ “nhẫn”.

Trung Cộng lại cổ động đấu tranh, “Triết học của Đảng Cộng sản là triết học đấu tranh”, “Người nếu phạm ta, ta ắt phạm người”. Phương pháp giải quyết vấn đề không phải là thỏa thuận và đối thoại, mà là dựa vào bạo lực và trấn áp, và còn dám miêu tả sự báo thù thành lòng dũng cảm.

Tô Đông Pha từng nói, hễ chịu nhục lập tức rút gươm mà đấu với người khác, đây là kẻ thất phu, về cơ bản không xứng được gọi là người dũng cảm hay dũng cảm chân chính, vốn phải luôn giữ được bình tĩnh không kinh động cho dù đột nhiên đối mặt với sự xâm phạm. Hơn nữa dù cho gặp phải sự nhục mạ vô cớ cũng có thể khống chế sự phẫn nộ của bản thân, là vì tấm lòng bao la, tu dưỡng sâu dày, ý chí cao xa.

“Nhẫn” trong Văn hóa truyền thống là tự kiềm chế, khoan dung, không ghi nhớ sai lầm của người khác, chứ tuyệt đối không phải là nhu nhược, nhượng bộ một cách vô nguyên tắc.

Trung Cộng chủ trương “người nếu phạm ta, ta ắt phạm người” kỳ thực là bụng dạ hẹp hòi, thù vặt cũng quyết báo. Điều này rất phù hợp với cái tinh thần “đấu tranh” ấy. Kiểu suy nghĩ này khiến con người trong xã hội ân oán không dứt, ai cũng giống như kẻ địch, đây cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến mối quan hệ giữa con người ngày nay trở nên căng thẳng.

Người Trung Quốc nhìn thấy Càn là cương, Khôn là nhu, cương nhu bổ trợ, vạn vật đều thông suốt, là lĩnh ngộ được đạo hài hòa. Trong quan niệm truyền thống rất coi trọng chữ “hòa”. Ba đại điện trong hoàng cung, lần lượt được gọi là “Điện Thái Hòa”, “Điện Trung Hòa”, “Điện Bảo Hòa” đã phản ánh sự tôn sùng với sự hài hòa và hòa thuận.

Hiện nay những từ như “đối thoại”, “thương thảo”, “hợp tác” thường xuất hiện ngoài miệng người phát ngôn của Trung Cộng, những lời lẽ dối trá này là mặt khác của sự trấn áp. Những kiện gần đây như sự kiện Sán Vỹ, sự kiện Hán Nguyên, sự kiện mỏ dầu Thiểm Bắc và những cuộc trấn áp tàn khốc các nhân sỹ đi thỉnh nguyện, nông dân mất đất, những hộ phải di dời, công nhân mất việc, thực chất cũng chính là sự tiếp diễn của tinh thần đấu tranh, lợi dụng thảm sát để xây dựng “xã hội hài hòa giả tạo”. Mặt khác, do đấu tranh đã trở thành cột trụ chủ yếu để Trung Cộng dựa vào mà tồn tại, chỉ cần tìm được cách đối thoại và hòa giải, tự thân Trung Cộng cũng sẽ giải thể.


Ảnh: Epoch Times

4) Phê phán trật tự xã hội truyền thống

Trạng thái tự nhiên “Thiên tôn địa ti” trời cao đất thấp của người Trung Quốc và đối ứng về “Càn khôn” và “Âm dương” trong Kinh Dịch đã mở rộng ra một bộ lý luận về gia đình và xã hội, từ bộ luân lý này lại phát sinh ra trật tự xã hội.

“Tôn ti” (Cao thấp) là một phần quan trọng trong quan niệm truyền thống của người Trung Quốc. Theo Văn hóa truyền thống, “ti” không hẳn là chuyện xấu. Đạo gia vẫn luôn tôn sùng mỹ đức của nước, vì nước thường ở “chỗ thấp”. Phía “chỗ thấp” là phía được yêu mến và bảo hộ, phía “chỗ cao” là phía cần phó xuất. Nam mạnh, nữ yếu, nam cương, nữ nhu. Nhưng cương không nhất định có nghĩa là chuyện tốt. Đạo gia có cách nói “Binh cường tắc diệt”, “gỗ cứng tắc gãy”, “nhu nhược thắng cương cường”.

Trung Cộng vẫn luôn đảo lộn trật tự, khoác lác rằng muốn xây dựng một xã hội trong đó mọi người đều bình đẳng. Nhưng xã hội không tồn tại sự bình đẳng theo hàm nghĩa của Trung Cộng.

Trong cuộc sống xã hội, một quốc gia, xí nghiệp, đoàn thể hay gia đình, thường sẽ phải có người đi điều tiết một vài chuyện, có người đưa ra kế hoạch, có người chấp hành một cách cụ thể, đây là một trạng thái xã hội bình thường, cũng là do nhân tố tổng hợp về trí lực, thể lực của mỗi người quyết định. Còn Trung Cộng lại cực đoan hóa điều đó, miêu tả nó thành sự áp bức giai cấp và đấu tranh giai cấp. Cho nên Trung Cộng phải đảo lộn mọi tôn ti và trật tự, điều này thực tế là không thể làm được. Thứ gọi là “giải phóng” kỳ thực là tạo ra “sự hỗn loạn”.

Ví dụ như người đề xướng nam nữ bình đẳng cũng không thể phủ nhận rằng khi gặp phải tai họa, dịch bệnh, nạn đói, chiến tranh thì phụ nữ và trẻ em đều là những đối tượng được bảo vệ đầu tiên. Nếu đề xướng nam nữ bình đẳng, thì dường như phụ nữ nên nhận được sự đối đãi giống như đàn ông, điều này hiển nhiên là không đúng. Năm đó khi con tàu Titanic chìm xuống đáy biển thì phụ nữ và trẻ nhỏ là những người được ưu tiên lên tàu cứu hộ trước, dù là chồng của họ cũng phải cùng chìm xuống với con tàu như một nam tử hán. Không ai có dị nghị gì với quyết định này, điều này phản ánh rằng trong nơi sâu nội tâm của chúng ta không hề có sự bình đẳng tuyệt đối giữa nam và nữ.

Mở rộng ra trong cuộc sống xã hội, một xí nghiệp hay một quốc gia phải có người ra sách lược, quyết định của người ra sách lược phải được người thực thi chấp hành. Quân đội phải có tư lệnh, quan quân các cấp và binh sỹ bên dưới chịu trách nhiệm chấp hành mệnh lệnh. Nếu xét từ góc độ công tác xã hội, kỳ thực cũng tồn tại vấn đề “tôn ti”, nhưng “tôn ti” hoàn toàn không phải có nghĩa hiển nhiên là bóc lột và đàn áp, nó cũng cần có mối quan hệ đạo đức tốt đẹp là “nhân đạo” và “trung thành” ở giữa.

Mở rộng tới phạm vi gia đình, phụ “từ”, tử  “hiếu”, huynh “hữu – hữu hảo” đệ “cung – cung kính”, những luân lý truyền thống truyền tải sự hài hòa có trật tự của gia đình và xã hội một cách tự nhiên.

Còn nói về “công bằng” một cách căn bản chính là “chúng sinh bình đẳng” trong Phật Pháp, là “Thiên đạo vô thân” (Đạo trời không kể người thân) của Đạo gia, là “hữu giáo vô loại”(dạy dỗ không phân biệt loại người), là “trước mặt Thượng Đế mọi người đều bình đẳng” của phương Tây là bình đẳng về cơ hội, chứ tuyệt đối không phải sự bình đẳng về kết quả.

Những tuyên truyền lệch lạc của Trung Cộng về “bình đẳng” đã khiến xã hội vô cùng hỗn loạn, không còn tôn ti trật tự. Sự giải thích lệch lạc về “bình đẳng nam nữ” kỳ thực chính là sự bức hại đối với phụ nữ, ép buộc họ lao lực đảm đương những công việc không phù hợp với sức mình hoặc không phù hợp với phụ nữ. Ví dụ như trong cuốn sách “Quyết liệt triệt để với quan niệm truyền thống cũ” được Trung Cộng xuất bản vào tháng 04 năm 1976 đã liệt kê ra bài viết của 15 nữ thanh niên, trong đó nghề nghiệp mà các cô theo đuổi vốn dĩ nên do đàn ông gánh vác như công nhân đưa than, giết mổ, công nhân bốc xếp v.v.., “nắm chặt con dao mổ, có thể chịu đựng được cả nửa ngày” đã trở thành đối tượng được ca tụng.

Xã hội dưới sự thống trị của Trung Cộng đồng thời cũng là xã hội rất bất công. Do Trung Cộng lũng đoạn mọi tài nguyên, nó tự xưng là công bộc của nhân dân, nhưng thực tế nhân dân đều bị coi như nô lệ, dù là quyền lợi chính trị hay quyền lợi kinh tế, giữa quan và dân hoàn toàn không hề có một chút bình đẳng nào để nói.


Ảnh: Epoch Times

5) Lấy tài sản làm căn cứ quan trọng để đo lường đạo đức

Chương mở đầu trong lịch sử Trung Quốc, “Ngũ Đế bản kỷ” đã ghi lại đức hạnh của Ngũ Đế, sự thừa nhận và tôn kính của người dân trăm họ với những đức hạnh này. Những đức hạnh này đã đi sâu vào lòng người, lưu truyền mấy nghìn năm, đồng thời từ vùng đất người Hán đã lan rộng khắp cả khu vực dân tộc thiểu số và những nước khác.

Trong quan niệm của người Trung Quốc, đạo đức và học thức là nguồn gốc của việc có được danh vọng và địa vị. Khổng Tử nói: “Đại đạo chi hành dã, thiên hạ vi công, tuyển hiền dữ năng, giảng tín tu mục” (Hành đại đạo, thiên hạ là của chung, tuyển người hiền tài, dạy điều tín, ăn ở hòa thuận), nhân phẩm của một con người trở thành tiêu chí quan trọng để tuyển chọn quan lại. Thời Hán thịnh hành chế độ Sát cử (quan sát, khoa cử), tiêu chuẩn để được tiến cử là phải có những phẩm chất như “đức hạnh cao, chí tiết thanh bạch; học thông và biết làm theo; am hiểu các kinh sách, hiểu rõ pháp lệnh, giải được nguy nan….“ ngoài ra còn phải có những mỹ đức như “chất phác, đôn hậu, khiêm nhường, tiết kiệm”. Đến thời Ngụy Tấn, quan phủ thực thi chế độ Cửu phẩm trung chính, đạo đức cũng trở thành một nhân tố quan trọng để tuyển chọn quan lại. Đến thời Tùy Đường mở khoa thi tìm sỹ tử thì cũng giống như vậy, trình độ lý giải đối với đạo đức của Nho gia là điều kiện tiên quyết để những người ứng thí có thể viết ra những bài văn hay từ đó mà bước lên con đường của kẻ sĩ.

Đến khi Trung Cộng xây dựng chính quyền, những vị thân sĩ nông thôn, trưởng các phường hội và phần tử tri thức đức cao vọng trọng ngược lại lại trở thành đối tượng bị đàn áp và đả kích, còn một người xuất thân có phải là “bần hàn khốn khó – thành phần ‘trong sạch’ ” hay không mới là nhân tố quan trọng nhất xét xem liệu người đó có được nắm giữ nguồn tài nguyên của xã hội hay không. Đạo đức của mỗi người vốn quyết định bởi tư tưởng và hành vi của người đó. Còn tới lượt Trung Cộng, đạo đức trở thành một tiêu chí mang tính quần thể của giai cấp. “Ai nghèo người đó vinh quang, ai giàu người đó chỉ bằng loài vật”. Nghèo khó đã trở thành đại diện cho tính chính xác và chính nghĩa của tạo hóa, đại diện cho những người bị bức hại, đại diện cho việc “làm phản có lý”, đại diện cho cách mạng kiên quyết nhất, triệt để nhất”.

 
Ảnh: Epoch Times

Sự bần hàn và phú quý của một người vốn bất định, cũng có thể vì chăm chỉ chịu khó và nắm bắt được cơ hội mà thành giàu có, cũng có thể vì hoang phí mà khuynh gia bại sản, cũng có thể ai đó ruộng vườn rộng lớn, nhưng vài năm sau đó lại phải đi xin ăn. Nhưng Trung Cộng thực thi “một nhát dao” mà phân chia giai cấp ngay từ thời khắc nó cướp đoạt chính quyền đó.

Thù hận sự giàu có đã khiến người Trung Quốc mấy chục năm nay đều lấy nghèo khó làm vốn mà coi thường người khác. Mặt khác khi Trung Quốc đánh đổ một người nào đó, chỉ cần gọi những người này là địa chủ hay nhà tư bản, còn lại không cần phải tốn lời, giàu có đại diện cho “bóc lột”, đại diện cho “trấn áp”, đại diện cho “tội ác”.

Mấy chục năm sau, Đảng Cộng sản bản thân nó lại điên đảo càn khôn mà hiệu triệu mọi người thi nhau làm giàu. Con người ngày nay không còn coi giàu có là tội ác, ngược lại cho rằng nghèo khó mới đáng xấu hổ. Lúc này nhận định một người tốt hay xấu, thành công hay không cũng không liên quan gì tới đạo đức, mà là đo lường bằng mức độ giàu có của con người, ai có tiền người đó có bản lĩnh, dù cho đồng tiền này là ăn trộm, ăn cướp, lừa lọc, tham ô nhận hối lộ mà có hay bán thân xác hoặc bán đứng linh hồn mà có được. Kết quả của việc “Cười người nghèo, không cười kỹ nữ” đã khiến mọi người càng không từ thủ đoạn tìm kiếm tiền tài, sau đó là càng chìm đắm trong sắc và thanh (sắc đẹp và giọng nói dễ nghe), lấy thân phận là người được hưởng những đặc quyền đặc lợi mà thừa nhận sự thống trị của Trung Cộng.

6) Những quan niệm bị phê phán khác

Những phê phán của Trung Cộng thường là những phê phán không có lý trí, mà biến việc phê phán tư tưởng thành công kích người khác. Sau đó dùng những tà thuyết lệch lạc như “Những điều kẻ địch phản đối thì chúng ta ủng hộ, những điều mà kẻ địch ủng hộ thì chúng ta phản đối” nhằm nhất loạt mắng chửi tư tưởng của người bị phê bình. Còn kiểu công kích người có tư tưởng kia lại chỉ là chụp lên những cái mũ như “giai cấp chủ nô”, “giai cấp địa chủ”, “giai cấp tư sản”, “tu chỉnh chủ nghĩa” một cách vô cùng đơn giản mà thôi.

Thông qua việc vu khống Khổng Tử, Trung Cộng còn theo đó mà phủ định luôn tư tưởng “Trung dung”, “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín”, “Khắc kỷ phục lễ”, “Ôn lương cung kiệm nhường” (Ôn hòa, lương thiện, cung kính, tiết kiệm, khiêm nhường) của Nho gia. Rất nhiều người khi nhìn thấy những chữ này, họ không nghĩ tới nội hàm của bản thân nó, mà là nghĩ tới tuyên truyền ầm ỹ, chụp mũ rợp trời rợp đất, báo chữ to, cho đến kết cục bi thảm của người bị phê phán, từ đó vì sợ hãi mà phải tự giác “vạch rõ đường ngăn” với những tư tưởng này.

Nho gia giảng “nhân” chính là quan tâm tới người khác, “Kỷ sở bất dục, vật thi vu nhân” (Những điều mình không thích thì đừng nên làm cho người khác). Việc phê phán chữ “nhân” dẫn đến “Kỷ sở bất dục, yếu thi vu nhân” (Những điều mình không thích thì phải làm cho người khác).

Người Trung Quốc tôn sùng “Trung dung”. “Trung dung” tuyệt đối không phải là “ba phải”, dối trá, được lợi từ cả hai bên, hai mặt, mà nghĩa gốc của nó là “Thường thủ trung đạo” (Thường giữ mình ở trong đạo), tức là thuận theo Thiên mệnh, “không được xa rời dù chỉ một lát”. Trong đó còn bao hàm cả phương thức học tập “Bác học chi, thẩm vấn chi, thận tư chi, minh biện chi, đốc hành chi” (Học cho nhiều, hỏi cho sâu, suy nghĩ cẩn trọng, phân biệt cho rõ và dốc lòng thực hiện), xử lý tốt mối quan hệ “Quân thần, phụ tử, vợ chồng, côn đệ (anh em), bằng hữu”, đạt đến “chí đức”, hoàn toàn là đạo tu thân trị quốc. Còn Trung Cộng lại hoàn toàn bẻ cong nghĩa vốn có của “Trung dung” thành những kẻ khuyển nho vì bảo hộ bản thân mình mà vứt bỏ nguyên tắc

Comments

Popular posts from this blog

Chương 3 : Các thủ đoạn nhồi nhét : Lợi dụng các văn nhân của tà đảng để ca ngợi công lao của ác đảng

Chương 3 : Các thủ đoạn nhồi nhét : Cưỡng chế người dân đọc sách của Marx, Engels, Lenin, Stalin, và Mao Trạch Đông

Chương 2: Cải tạo tư tưởng một cách hệ thống : Phê phán Nho – Thích – Đạo