Chương 3 : Các thủ đoạn nhồi nhét : Lợi dụng các văn nhân của tà đảng để ca ngợi công lao của ác đảng

 

3. Lợi dụng các văn nhân của tà đảng để ca ngợi công lao của ác đảng

Bài bình luận số 1 trong Cửu Bình đã chỉ ra rằng: “… tất cả các xã hội của chính quyền không cộng sản, không kể là chuyên chế hay cực quyền đến mấy, xã hội nào cũng đều có một bộ phận những tổ chức tự phát triển và có các thành phần tự chủ… Vậy mà các chính quyền của Đảng cộng sản đều tiêu diệt sạch những tổ chức tự phát và các thành phần tự chủ, để thay vào đó là kết cấu tập trung quyền lực triệt để, từ trên xuống dưới.” Một trong những hậu quả do Đảng Cộng sản khống chế xã hội một cách hà khắc cực đoan tạo thành là sự biến mất của giai tầng phần tử trí thức độc lập. Trung Cộng tiêu diệt một bộ phận phần tử trí thức, những người khác thì bị gán vào đủ kiểu “đơn vị”. Thực tế đơn vị là hình thức tổ chức cơ bản mà Trung Cộng sử dụng để khống chế nhân dân ở thành thị trên mọi phương diện. Phần tử trí thức mất đi phương thức mưu sinh và không gian tự do ngôn luận bị chính quyền khống chế, đành phải phụ thuộc vào Trung Cộng, dưới áp lực khổng lồ và bị đẩy vào bước đường cùng, đại bộ phận trong số họ đành phải sử dụng tri thức chuyên môn của mình mà ca ngợi tà đảng trên mọi góc độ với mọi phương thức nhằm bảo toàn tính mạng và nuôi sống gia đình. Xã hội Trung Quốc vốn có truyền thống “Tôn Sư trọng Đạo”, chính quyền Trung Cộng lợi dụng sự tín nhiệm và tôn trọng của dân chúng với những người làm công tác văn hóa, gián tiếp nhồi nhét Văn hóa đảng vào trong dân chúng thông qua tác phẩm và ngôn luận của các văn nhân, thay đổi tiêu chuẩn thiện ác của người Trung Quốc. Việc kiến lập và duy trì một giai tầng “phần tử ngụy tri thức”, vừa khiến Trung Cộng thoát khỏi bị phán xét sự trong sạch và ước chế của dư luận, vừa giúp nó có thể ngụy tạo ra “thành quả nghiên cứu” và “dư luận xã hội” có vẻ công bằng mọi lúc mọi nơi, biện hộ cho sự thống trị của tà đảng.

Phương thức Trung Cộng thu nạp văn nhân chủ yếu bao gồm: Trực tiếp thu hút họ gia nhập đảng và còn gia nhập chính quyền (chính phủ, đại hội đại biểu nhân dân, hiệp hội chính trị), như Quách Mạt Nhược đã từng đảm nhận vị trí Phó Thủ tướng Chính phủ, nhà lịch sử học Ngô Hàm từng đảm nhận vị trí Phó Chủ tịch Hiệp hội Chính trị thành phố Bắc Kinh, Phó Thị trưởng thành phố Bắc Kinh; đặt họ vào các đảng phái dân chủ; đặt họ vào các cơ cấu như Viện Nghiên cứu Khoa học (Viện Nghiên cứu Khoa học Xã hội), đại học hoặc các Viện Nghiên cứu Văn hóa Lịch sử, hoặc đưa họ vào Hiệp hội các tác gia, Hiệp hội kịch sân khấu, Hội liên hiệp Văn học Nghệ thuật và các ban ngành khác. Dịch giả Phó Lôi, người đã tự sát cùng vợ trong Cách mạng Văn hóa, là một trong những số ít những người hành nghề tự do không thuộc vào bất kỳ “đơn vị” nào sau khi Trung Cộng giành chính quyền.

Nhằm tiện khống chế hình thái ý thức, vào những năm 50, Trung Cộng đã tiến hành chương trình “điều chỉnh các viện nghiên cứu” của các học viện cấp cao, hợp nhất rất nhiều khoa triết học của nhiều trường học với nhau. Những môn như chính trị học, xã hội học, tâm lý học, nhân loại học v.v.. được gọi là môn học của giai cấp tư sản, bị thủ tiêu triệt để, cho tới những năm 80 mới dần được khôi phục trở lại. Cơ cấu các trường đảng, viện nghiên cứu khoa học xã hội, các trường đại học, cao đẳng cồng kềnh từ Trung Ương đến địa phương, nhân viên nhiều như nấm, được treo biển “nghiên cứu khoa học”, dùng trăm phương nghìn kế nhằm biện chứng cho tính hợp pháp cho Trung Cộng.

Trải qua những bước như tổ chức và thu nạp cải tổ, cải tạo tư tưởng, khủng bố bằng bạo lực, dụ dỗ bằng lợi ích, đào thải những người bất đồng tư tưởng (Cuộc vận động “chống cánh hữu” đã lưu đày những phần tử trí thức dám lên tiếng trước bàn dân thiên hạ) v.v.. Trung Cộng đã nắm chặt phần tử tri thức trong lòng bàn tay, một số ít người chính trực và thanh tỉnh nhiều nhất cũng chỉ dám phẫn nộ mà không dám lên tiếng, những người nhu nhược sợ hãi đành phải thuận theo chiều gió. Những kẻ nịnh hót xảo quyệt lại chủ động xông pha, làm nanh vuốt và vây cánh cho ác đảng.

Trung Cộng cài đại diện và cổ động viên chủ chốt vào nội bộ giới triết học, giới sử học, giới văn học, giới khoa học, giới tôn giáo. Những người này thường ngày làm bộ làm tịch, bào chế ra hết bài văn này đến bài văn khác, hết “tác phẩm” này đến “tác phẩm” khác, biện chứng “chủ nghĩa Marx là khoa học chân chính”, “năm giai đoạn phát triển của xã hội là chân lý phổ biến”, “khoa học tự nhiên tự nó có mang tính giai cấp”, “tôn giáo là chân lý, Chủ nghĩa xã hội cũng là chân lý”, làm giàu thêm kho vũ khí cơ bản của Văn hóa đảng. Khi vận động xảy ra, những người này như cá gặp nước, theo sát xu thế nhằm biểu lộ lòng trung thành với “đảng”, dùng những thứ biên diễn giả tạo để ca ngợi công lao của ác đảng, đoạn chương thủ nghĩa, thêu dệt tội danh, công kích “kẻ thù” của Trung Cộng trên mạng một cách vô độ, bán đứng nhân cách để xin ít cơm thừa canh cặn từ ông chủ đảng. “Lương Hiệu” trong Đại Cách mạng Văn hóa, sau cuộc dân vận năm 89 có Hà Tân, trong cuộc vận động đàn áp Pháp Luân Công có Hà Tộ Hưu, Vu Quang Viễn, Phan Gia Tranh đều thuộc loại này.

Đại biểu cho những văn nhân của ác Đảng, trước đây có Quách Mạt Nhược, sau này có Hà Tộ Hưu.

Nhà văn Quách Mạt Nhược với phong cách thuận theo chiều gió được Trung Cộng tôn xưng là “tiên phong văn hóa”, có khả năng biến hóa còn giỏi hơn cả tắc kè hoa. Trung Cộng bảo y kiểm điểm thì y kiểm điểm, bảo y phê phán Vũ Huấn, phê phán Hồ Thích, phê phán Hồ Phong [6], y liền phê phán hăng hái hơn bất kỳ ai, bảo y lật lại vụ án của nhân vật lịch sử nào y sẽ lật lại vụ án cho nhân vật lịch sử đó. Nhưng nguyên tắc lập trường không ngừng biến đổi của Trung Cộng khiến Quách Mạt Nhược cũng không thể thích nghi. Thời kỳ đầu của Cách mạng Văn hóa, Quách Mạt Nhược đánh hơi thấy được xu thế đã thay đổi, lập tức kiểm điểm nói: “Theo tiêu chuẩn ngày nay, những gì tôi viết trước đây, nghiêm khắc mà nói, đều nên đốt hết, không có chút giá trị nào. Nguyên nhân chủ yếu là gì? Chính là vì chưa nắm vững tư tưởng Mao Trạch Đông, chưa trang bị cho bản thân tư tưởng Mao Trạch Đông.”

“Viện sĩ chính trị” Hà Tộ Hưu, trong Cách mạng Văn hóa vì muốn tâng bốc Mao Trạch Đông và Đảng Cộng sản, đã đưa ra khái niệm “Mao Tử” và “Vô Tử”, năm 2001 lại đề ra “quy luật của cơ học lượng tử” phù hợp với tinh thần ‘Tam đại biểu’ của Giang Trạch Dân.” Chính tên thổ phỉ khoa học này đã trở thành “nguồn lý luận” chủ yếu mà Trung Cộng dùng để công kích Pháp Luân Công.

Chính tín, chân lý và thể hệ đạo đức chính thống của nhân loại đều có đặc điểm ổn định bất biến. Còn thứ đạo đức nhảy múa theo quyền lực thế tục không xứng đáng được gọi là đạo đức, chân lý không ngừng “biến đổi theo thời gian” xưa nay không hề có tư cách gọi là chân lý, niềm tin đối với một thứ không ngừng biến đổi căn bản không phải là niềm tin. Những văn nhân của tà đảng sáng nắng chiều mưa, nói một đằng làm một nẻo, tất nhiên sẽ phá hoại chút lòng tin cuối cùng còn sót lại của con người vào nhân tính và phẩm chất đạo đức tốt đẹp, cổ vũ con người vứt bỏ hết thảy chuẩn tắc đạo đức, yêu ghét những gì mà Trung Cộng yêu ghét, coi việc duy hộ sự tồn vong của chính quyền Trung Cộng thành điều trọng yếu số một.

Chương 1 và chương 2 trong cuốn sách này cũng khá đủ để có thể vạch trần các văn nhân của tà đảng trong giới học thuật, giới tôn giáo, giới khoa học, trong mục này chúng tôi sẽ phân tích trọng điểm văn nhân của tà đảng đã ca ngợi công lao của ác đảng, cải tạo tiêu chuẩn thiện ác của người Trung Quốc như thế nào trong lĩnh vực văn học.

Nghĩa rộng của văn học bao gồm văn hiến và văn chương, cũng bao gồm những tác phẩm văn học theo nghĩa hẹp. Do ngôn ngữ trong hệ thống văn hóa nhân loại có tính trọng yếu đặc biệt, nên những nền văn hóa chính thống lớn đều vô cùng coi trọng ngôn ngữ và lai lịch văn học nghệ thuật..

Văn hóa Trung Quốc là kiểu văn hóa bán Thần. Cổ nhân tin rằng, văn chương bắt nguồn từ Thiên đạo chí cao vô thượng, do vậy mới nói “văn dĩ tải đạo” (văn dùng chở đạo); văn học có thể nâng cao đạo đức, tu dưỡng tính cách, do vậy mới nói “Tu từ lập kỳ thành” (tu sửa lời ăn tiếng nói tạo nên sự chân thành), “Thi giả trì dã, trì nhân tình chí” (người hiểu được thơ thì kiềm chế được tình cảm, tình chí). Những mặc khách văn nhân các thời đại coi việc sáng tác văn học là “đại nghiệp dựng nước, đại sự bất hủ”, dùng tâm thái trang trọng thành kính mà sáng tác ra rất nhiều tác phẩm văn học xuất sắc, những tác phẩm này kỳ thực chính là sự phản ánh thế giới nội tâm thuần khiết, cao thượng của họ.

Trung Cộng là một tà giáo khống chế tư tưởng con người, sự coi trọng đối với hình thái ý thức của nó vượt xa tất cả những chính quyền từ xưa đến nay. Sau khi tà linh Trung Cộng xâm nhập, văn học không may đã trở thành công cụ đáng hổ thẹn của Trung Cộng dùng để chế tạo Văn hóa đảng, nhồi nhét Văn hóa đảng. Những văn nhân không có phẩm hạnh cúi đầu vâng mệnh Trung Cộng thì thăng tiến vùn vụt, những tác gia và thi nhân không muốn vứt bỏ sự tôn nghiêm của nhân cách bản thân thì dù tránh được bức hại, cũng bị tước bỏ cơ hội sáng tác hoặc phát biểu ý kiến, chỉ có thể lặng lẽ lụi tàn bên lề xã hội.

Văn nghệ tư tưởng của Đảng Cộng sản do Marx và Engels khởi đầu, Lenin tiếp nối, Mao Trạch Đông hoàn thiện. Trong “Bài nói chuyện tại buổi toạ đàm văn nghệ tại Kiến An”, Mao Trạch Đông công khai tuyên bố: “Đảng Cộng sản muốn văn nghệ trở thành một bộ phận cấu thành toàn bộ bộ máy cách mạng, trở thành một vũ khí mạnh mẽ để đoàn kết nhân dân, giáo dục nhân dân, công kích kẻ thù, tiêu diệt kẻ thù.” Bài thuyết giảng mang sát khí đằng đằng này chính là sự mở màn cho việc Trung Cộng lợi dụng văn nhân để kiến lập Văn hóa đảng, khống chế thế giới tinh thần của người Trung Quốc. Từ đó, “tiêu chuẩn chính trị là số 1, tiêu chuẩn văn học là số 2”, “văn học phục vụ đấu tranh giai cấp”, “toàn đảng làm văn nghệ, toàn dân làm văn nghệ”, “chủ đề đi trước” v.v.. trở thành nguyên tắc chỉ đạo sáng tác của những tác gia bị Trung Cộng lợi dụng.

1) Dùng tác phẩm văn học để biện giải cho chính sách và lý luận của Trung Cộng

Nhìn tổng quan lịch sử đương đại của Trung Quốc, không khó phát hiện rằng dường như mỗi lần Trung Cộng phát động vận động chính trị, nó đều bắt đầu từ việc phê phán một tác phẩm văn nghệ nào đó hoặc một bộ trào lưu tư tưởng văn nghệ nào đó.

Cuộc vận động Chỉnh Phong những năm 40 mở màn từ tác phẩm “Hoa Bách hợp dại” của Vương Thực Vị, một loạt các cuộc vận động cải tạo tư tưởng những năm 50 bắt đầu từ việc phê phán bộ phim “Vũ Huấn truyện”, “Nghiên cứu Hồng Lâu Mộng” và cái gọi là “Tập đoàn Hồ Phong”, Đại Cách mạng Văn hóa dùng vở kịch lịch sử cải biên “Hải Thụy bãi quan” của Ngô Hàm để tế cờ, từ đó phê phán phim truyền hình “Hà Thương” chính là một bước trọng yếu trong việc chỉnh đốn tư tưởng sau cuộc đàn áp “Lục tứ” (vụ đàn áp sinh viên tại Thiên An Môn ngày 4/6/1989).

Về phương diện khác, các văn nhân dưới trướng của Trung Cộng nhẹ nhàng múa theo cây gậy chỉ huy của Trung Cộng, dùng tác phẩm văn nghệ để minh họa, tâng bốc lý luận và chính sách của Trung Cộng, thỏa mãn những nhu cầu chính trị của Trung Cộng qua các thời kỳ khác nhau.

Nhằm thích ứng với nhu cầu “cải cách ruộng đất” (tước đoạt ruộng đất của địa chủ) và cuộc “vận động hợp tác hóa” (tước đoạt tất cả ruộng đất của nông dân), các văn nhân đã sáng tác những tác phẩm “Bạo Phong Sậu Ủy”, (Mưa bão đột ngột) “Tam Lý Loan” (Vùng vịnh ba dặm), “Sáng Nghiệp Sử” (Lịch sử khai nghiệp), giúp Trung Cộng che đậy hành vi giết người, trị người tàn khốc, trắng trợn cướp bóc, lục soát nhà trong những cuộc vận động chính trị; nhằm bôi nhọ Quốc Dân đảng, tô vẽ cho cuộc nội chiến do Trung Cộng phát động trở thành “chiến tranh giải phóng”, các văn nhân đã sáng tác ra “Lâm Hải Tuyết Nguyên” (Cánh rừng tuyết phủ), “Bảo vệ Diên An”, “Hồng Nham” (Nham thạch đỏ); Trung Cộng muốn làm đẹp cho cuộc “Kháng Mỹ viện Triều”, các văn nhân liền viết “Ai là người đáng yêu nhất”; Trung Cộng muốn minh họa cho việc cải tạo “hòa bình” các nhà tư bản, các văn nhân liền sáng tác “Buổi sớm Thượng Hải”; Trung Cộng muốn tiêm nhiễm rằng nhân dân Trung Quốc “lựa chọn” Đảng Cộng sản, các văn nhân liền viết “Hồng kỳ phổ” (Cuốn sách màu đỏ), Trung Cộng cần dẫn dắt “phần tử trí thức giai cấp tiểu tư sản” trở thành “những người kiên định theo chủ nghĩa Marx”, các văn nhân liền sáng tác “Thanh xuân chi ca” (Bài ca thanh xuân);  Trung Cộng muốn ca ngợi “Đại nhảy vọt”, toàn quốc lại xuất ra hàng triệu bài dân ca giả dối.

Có người xem xong phim truyền hình về việc Trung Cộng bôi nhọ Pháp Luân Công bèn nói: “Xem xong phim này, tôi mới biết vì sao phải cấm Pháp Luân Công.” Lời đó hàm ý là không xem bộ phim này, anh ấy sẽ không biết vì sao phải cấm Pháp Luân Công. Văn nghệ của Trung Cộng bịa đặt ra căn cứ cho “tính chính đáng của chính sách”, có thể thấy rằng việc nhồi nhét dư luận trong cuộc vận động đàn áp mới nhất này đã khởi một tác dụng không thể thay thế. Kỳ thực, trong lịch sử khi Trung Cộng kích động tiêu diệt “giai cấp bóc lột”, nó cũng dùng thủ đoạn như vậy. Mặc dù người ta nhìn thấy địa chủ trong đời sống hàng ngày (kì thực chính là những người bình thường có đất đai) đa số là những người phúc hậu cần cù thật thà, nhiệt tình công tâm, nhưng qua sự nhồi nhét của Trung Cộng, cứ mỗi khi nhắc tới địa chủ, người ta liền nghĩ đến Chu Bái Bì, Lưu Văn Thái, Hoàng Thế Nhân, Nam Bá Thiên – những hình tượng địa chủ (độc ác) được bịa đặt thông qua các thủ đoạn văn nghệ, Trung Cộng đương thời tại khu nó chiếm đóng đã giáo dục binh sĩ thông qua việc dùng ca múa và kịch nói, rất nhiều chiến sĩ sau khi xem xong vở kịch “Bạch mao nữ” đã “dấy lên lòng căm thù giai cấp, cháy lên ngọn lửa báo thù” (Châu Dương Ngữ), được Trung Cộng “giáo dục” thành “chiến sĩ giai cấp vô sản có giác ngộ”.

2) Nhồi nhét thế giới quan, lịch sử quan, nhân sinh quan của Trung Cộng

(1) Phê phán tín ngưỡng đối với Thần, nhồi nhét vô thần luận

Thuyết vô Thần là cơ sở tư tưởng của Trung Cộng, còn những nền văn hóa chính thống lớn đều tin vào sự tồn tại của Thần, rất nhiều tác phẩm văn học sâu sắc và kiệt xuất đều miêu tả Thần, ngợi ca Thần, truy cầu Thần, như thần thoại Hy Lạp La Mã, “Thần Khúc” [7] của Dante, “Thiên đường đã mất” [8] của Milton, “Hành trình vĩnh cửu” [9] của Bunyan, “Tây du ký” của Trung Quốc v.v.. Do vậy, Trung Cộng một mặt khống chế văn nhân viết các tác phẩm sùng bái vật chất, sùng bái bạo lực, mặt khác khống chế các học giả sửa đổi, cắt xén, xuyên tạc văn học Hữu Thần luận. Cho nên, tôn giáo trở thành “thuốc phiện tinh thần”, thiên đường địa ngục biến thành “phong kiến mê tín”, thần thoại truyền thuyết trở thành hình tượng phản ánh nỗi sợ hãi của con người trước sức mạnh tự nhiên trong thời xã hội nguyên thủy có sức sản xuất kém phát triển, Tôn Ngộ Không trong Tây Du Ký và Sa-tăng trong “Thiên đường đã mất” trở thành đại biểu của giai cấp Vô sản và những người bị bóc lột.

(2)  Bài trừ quan niệm truyền thống, nhồi nhét thù hận giai cấp

Thơ ca truyền thống chú trọng “Oán nhi bất nộ, bi nhi bất thương” (Oán mà không giận, bi mà không thương), ngay cả khi ai oán thương cảm cũng phải khống chế cảm xúc bản thân, khiến tâm trạng trở về trạng thái cân bằng và ngay chính. Trong văn học cổ điển Trung Quốc tràn ngập những tác phẩm miêu tả tình bạn tình thân tốt đẹp, trung hiếu tiết nghĩa. Triết gia cổ Hy Lạp Aristoteles [10] cho rằng bi kịch có tác dụng bộc bạch và tịnh hóa, nhà văn La Mã cổ là Horace [11] cho rằng công dụng của văn học chính là giáo dục và giải trí. Tác phẩm văn học các nước trên thế giới dù có viết tới thù hận thì cũng đa số đều viết từ góc độ trừ ác khuyến thiện, miêu tả và kích động thù hận là đặc điểm mà văn học truyền thống không thể dung hòa.

Nhưng theo lý giải của Trung Cộng: “Một vài giai cấp đã thắng lợi, một vài giai cấp bị tiêu diệt, đây chính là lịch sử”, “Đấu tranh giai cấp là động lực chân chính cho sự phát triển của lịch sử”, “Ai là kẻ địch của chúng ta? Ai là bạn bè của chúng ta? Vấn đề này là vấn đề quan trọng nhất của cách mạng.” Do vậy, nhồi nhét và kích động thù hận giai cấp đã trở thành nhiệm vụ trọng yếu hàng đầu của văn nghệ đảng của Trung Cộng. Thù hận, trong lịch sử nhân loại, lần đầu tiên trở thành một từ ngữ mang nghĩa chính diện.

“Trong đôi mắt to nóng bỏng, đen lay láy của cô hầu 18 tuổi này đang bùng cháy một lòng thù hận khắc cốt ghi tâm.” Đây là lời mở đầu của kịch bản điện ảnh “Đội hồng quân tóc dài”. Kịch bản này được cải biên thành kịch bản múa với cường độ bạo lực mạnh hơn, khuếch đại thù hận đạt đến đỉnh điểm. “Cô gái ngẩng đầu ưỡn ngực, hai mắt phóng ra ngọn lửa thù hận bừng bừng”, “họ nắm chặt hai nắm đấm, thổ lộ hết những phẫn hận trong lòng”, “trong tâm bùng cháy lên ngọn lửa thù hận giai cấp”, “thao luyện quân sự kết thúc trong tiếng bắn giết chứa đầy thù hận giai cấp”, “khổ đại thù thâm”, “huyết hải thâm thù”, “báo thù tuyết hận”,… những nhân vật chính của kịch múa đại đa số là những thiếu nữ xinh đẹp chưa tới 20 tuổi, nhưng lại được miêu tả thành những cỗ máy giết người không còn chút nhân tính như vậy.

Điều đáng sợ hơn là, trong khoảng thời gian tương đối dài, đời sống tinh thần của người Trung Quốc thiếu thốn cực độ, những nhân vật này là các thần tượng mà các nam nữ thiếu niên mô phỏng theo. Trong Cách mạng Văn hóa, một học sinh trung học nữ có thể dùng dây lưng quật chết cô giáo của mình, “kẻ thù giai cấp” trên mảnh đất Quảng Đông rộng lớn bị mổ tim moi gan để ăn mà kẻ ăn thịt người không hề có cảm giác tội lỗi, họ đã tôn sùng thứ văn học thù hận cao độ.

(3) Tô vẽ cho các bạo chúa, tiểu nhân, thổ phỉ và côn đồ trong lịch sử

Ảnh: Epoch Times

Đảng Cộng sản muốn tô vẽ bản thân thành “sản vật tất yếu trong sự phát triển của lịch sử”, “sự lựa chọn tất yếu của nhân dân Trung Quốc”, cho nên cần sửa đổi lịch sử một cách toàn diện, tô vẽ cho các bạo chúa, tiểu nhân, thổ phỉ và côn đồ thành “động lực phát triển của lịch sử”. Cho nên những kẻ bị đánh giá là đại gian đại ác trong lịch sử Trung Quốc lại được Trung Cộng hết sức cung kính đưa lên bàn thờ Thần. Trụ vương nhà Thương bạo ngược, Tần Thủy Hoàng, Thương Ưởng [12] hà khắc, lạnh lùng đều trở thành đối tượng được Trung Cộng ca ngợi. Trung Cộng tôn thủ lĩnh chiến tranh nông dân thành tiên phong, tôn những kẻ tàn nhẫn hiếu sát, bạo ngược vô độ như Hoàng Sào, Trương Hiến Trung, Hồng Tú Toàn [13] trở thành hình tượng chính diện trong cung điện văn học của Trung Cộng. Tại đây chúng tôi chỉ đưa ra một ví dụ rất nhỏ.

Trương Hiến Trung, trùm thổ phỉ cuối đời Minh bản tính thích sát sinh, nhân khẩu của tỉnh Tứ Xuyên lúc đó gần như bị hắn tàn sát gần hết với đủ loại phương thức khác nhau, Thiên phủ chi quốc giàu có trù phú này đã biến thành địa ngục nhân gian.

Ngay trong lời mở đầu phần hạ quyển thứ nhất cuốn “Lý Tự Thành”, cuốn tiểu thuyết lịch sử dài kỳ đạt giải Văn học Mao Thuẫn năm 1982, giọng tao nhã của thể thơ điền viên đã viết rằng: “Cả vùng Cốc Thành không ngừng gặp chiến tranh loạn lạc, sau khi đoàn quân nông dân của Trương Hiến Trung chiếm cứ tại đây, dường như đã có chút không khí thái bình.”

Đương nhiên, việc tô vẽ cho các nhân vật lịch sử không phải mục đích. Sau khi tô vẽ xong những nhân vật lịch sử này, Trung Cộng sẽ công khai đường hoàng tô vẽ chính mình.

(4) Hạ thấp nhân tính, ca ngợi đảng tính

Đọc các tác phẩm lý luận văn nghệ của Trung Cộng sẽ phát hiện một hiện tượng kỳ lạ, chính là từ “nhân tính” bị dùng như là một từ mang nghĩa xấu. Một bộ tác phẩm nếu thể hiện “nhân tính” chính là một tác phẩm thất bại, thậm chí là phản động; ngược lại, một bộ tác phẩm thể hiện tính giai cấp (thù hận đối với kẻ thù giai cấp, hữu hảo với giai cấp anh em) đó lại là một tác phẩm hay, tiến bộ. Những tác phẩm thể hiện “tình yêu thương nhân loại” thông thường như tình phụ tử, tình mẫu tử, tình yêu, tình bè bạn, sự đồng cảm lại bị bài xích, còn những tác phẩm thể hiện đảng tính chiến thắng nhân tính, “giác ngộ giai cấp vô sản” lại được biểu dương.

Những nhân vật anh hùng được nhào nặn theo logic như vậy thông thường là “Cao”, “Đại”, “Toàn” (cao, lớn, toàn diện(có một bộ tác phẩm mà trong đó nhân vật chính gọi là Cao Đại Toàn) – hình tượng cao lớn, trí dũng song toàn, siêu phàm, một lòng trung thành với đảng, thù hận kẻ địch tới tận xương tủy. Còn nhân vật phản diện thì sẽ có hình tượng dung tục, hung tàn, xảo trá. Những nhân vật chính diện phải mang họ Cao, Lương, nhân vật phản diện phải mang họ “Điêu” (gian xảo).

Có một tiểu thuyết ngắn, miêu tả cảnh một địa phương bị thiếu muối trầm trọng. Người mẹ trẻ muốn dùng dưa muối làm “đảng phí” giao nộp cho đảng nên đã lấy đi cọng đậu đũa ướp muối từ trong tay bé gái gầy guộc đến mức “cái cổ dài gánh một cái đầu trơ xương”, khiến cô bé òa khóc nức nở. Người mẹ đã đặt đảng lên trên gia đình và tình thân, do vậy đã nhận được sự khẳng định của văn học đảng.

Hình tượng nữ giới trong các tác phẩm văn học của Trung Cộng thông thường không mang nét nữ tính đặc trưng mà mang khổ đại thâm thù, ý chí như thép. Tình yêu bị dán nhãn giai cấp tư sản, trong các tác phẩm văn học của Trung Cộng hoặc là hoàn toàn vắng mặt, hoặc là bị nhào nặn nhằm tôn lên sự “tráng lệ và vĩ đại” của “sự nghiệp cách mạng”. Nếu nhân vật chính nam (nữ) nảy sinh tình cảm, thì người kia thường phải hy sinh oanh liệt, vậy là nhân vật chính mang theo nguồn sức mạnh bi phẫn, tiếp tục dấn thân vào “làn sóng cuồn cuộn” của cách mạng. Nhân vật chính kết hôn vì tình yêu là điều đại kỵ trong văn học cách mạng, bởi vì một khi lập gia đình, những việc vụn vặt trong sinh hoạt hàng ngày sẽ “ăn mòn ý chí đấu tranh của nhà cách mạng”, Trung Cộng cũng sẽ không cách nào có thể “tiếp tục cách mạng”, “cách mạng không ngừng”.

Những văn nhân bị Trung Cộng lợi dụng đều tôn thờ nguyên tắc “chủ đề đi trước”, do vậy mỗi lần Trung Cộng có yêu cầu mới, những tác phẩm văn học hợp thời sẽ được sản xuất hàng loạt. Trên đây chỉ đưa ra một số ví dụ nho nhỏ.

3) Một số đặc điểm của việc Trung Cộng lợi dụng văn học để tiến hành nhồi nhét

Văn hóa đảng là một loại văn hóa phụ thể bám vào văn hóa Trung Quốc. Trung Cộng rất giỏi lợi dụng hình thức và nguyên tố của văn hóa truyền thống, văn hóa dân gian nhằm đạt được mục đích tăng cường hiệu quả tuyên truyền.

(1) Trộm dùng văn hóa dân tộc một cách toàn diện

Thái độ của Trung Cộng đối với văn hóa nhân loại xưa nay đều là “dùng cho ta”, chỉ cần có lợi cho sự thống trị của nó, nó sẽ vơ vét toàn bộ, quyết không nương tay, cũng không hối tiếc. Về phương diện văn học, thể thơ cũ, thơ bạch thoại, các loại dân ca, tiểu thuyết ngắn và vừa, tiểu thuyết dài, tiểu thuyết chương hồi, tản văn, nhạc kịch, v.v.. toàn bộ đều được dùng để truyền tải nội dung Văn hóa đảng, có thể gọi một cách đẹp đẽ là “bình cũ rượu mới”, “hình thức dân tộc, nội dung xã hội chủ nghĩa”.

Làm như vậy ắt hẳn có nguyên nhân. Tâm lý thẩm mỹ của con người mang tính ổn định nhất định. Thói quen thẩm mỹ hình thành qua thời gian lâu dài không dễ dàng thay đổi, như vậy nếu làm lại từ đầu, dùng bình mới đựng rượu mới chi bằng lợi dụng thói quen thẩm mỹ cố hữu của con người, lén lút cài nội dung Văn hóa đảng vào đó. Hình thức dân tộc truyền tải nội dung Văn hóa đảng này vừa mang tới cho con người cảm giác thân thuộc, lại vừa mang tới cho con người cảm giác mới lạ, đạt hiệu quả tối đa trong tuyên truyền của Trung Cộng. Cho nên, trong khi mọi người ngâm vịnh thơ, ngân nga làn điệu dân gian, đọc tiểu thuyết, xem kịch nói thì đã trở thành tù nhân của Văn hóa đảng một cách vô thức.

(2) Lợi dụng thành thạo kỹ xảo văn học

Mặc dù “đảng” hầu như là một từ trái nghĩa với văn hóa, hầu như tương đương với “võ hóa”, “thô bỉ, dã man hóa”, “phản văn hóa”, nhưng về một phương diện khác, “đảng” lại vô cùng giỏi lợi dụng văn hóa, “đảng” lợi dụng văn hóa để chống lại văn hóa.

Những văn nhân làm tay sai được Trung Cộng trọng dụng, để đạt được hiệu quả cao hơn trong  việc tuyên truyền văn học của đảng đã thực sự phải lao tâm khổ tứ. Các thủ pháp nghệ thuật văn học cổ điển phương Đông, phương Tây như tả thực, tương phản, tình tiết kịch tính, gánh nặng tâm lý, hô ứng, tình tiết gay cấn, miêu tả tâm lý, tính cách điển hình, ngôn ngữ cá tính hóa… dường như đều được sử dụng.

Bởi vì văn nghệ của Trung Cộng coi trọng việc “phổ cập”, chủ yếu nhắm vào quần chúng công nông văn hóa không cao, do vậy tác phẩm văn học sản xuất ra mặc dù trình độ có hạn, nhưng khá thành công trong việc đạt được mục đích nhồi nhét Văn hóa đảng.

(3) Dùng việc cấm sách để tăng cường sự đói khát về văn hóa

Đối với những người đói khát thì đồ ăn nào cũng đều là cao lương mỹ vị. Trung Cộng biết rằng, thứ gọi là văn học mà những văn nhân tay sai bào chế ra, tuyệt đối không thể sánh được với những tác phẩm văn học chân chính, có trình độ cao, nổi tiếng thế giới. Mụ phù thủy xấu xí mang lòng đố kỵ vốn không thể khiến bản thân mình trở nên xinh đẹp, đành phải bày mưu tính kế hại chết công chúa Bạch Tuyết xinh đẹp. Sau khi Trung Cộng xây dựng chính quyền, nó đã lên kế hoạch hủy sách, cấm sách. Trong Cách mạng Văn hóa, phàm là những đồ vật liên quan tới cái đẹp đều bị dán nhãn là “giai cấp tư sản”, sự đói khát văn hóa của người Trung Quốc đã lên đến tột đỉnh. Khi khó mà nhẫn chịu được sự đói khát ấy, con người đành phải uống rượu độc để giải khát, vậy là Văn hóa đảng thừa cơ xâm nhập.

(4) Dùng sự lặp lại để tăng cường hiệu ứng nghiện

Con người không cần sống nhờ vào rượu; với người không uống rượu, mùi vị của rượu cũng không thấy vừa miệng chút nào. Nhưng vì sao có người lại quý rượu như sinh mệnh? Chính là do hiệu ứng nghiện. Suốt một thời gian dài chìm đắm trong một loại văn hóa, con người ta sẽ dưỡng thành một kiểu tâm lý mong đợi. Một tác phẩm chứa đầy những mong đợi này, cũng sẽ như gãi đúng chỗ ngứa, nó sẽ khiến con người nảy sinh cảm giác thỏa mãn. Cái gọi là mỹ cảm, trong tuyệt đại đa số các tình huống, chính là cảm giác thỏa mãn đối với cơn nghiện. Hiểu được điểm này sẽ không khó để minh bạch rằng, mỹ cảm đôi khi là phi lý tính, có thể tạo ra một cách nhân tạo, mà tâm lý thẩm mỹ của con người cũng có thể bị người khác thao túng lợi dụng.

Trung Cộng đã lợi dụng điểm này. Giáo lý của “đảng” được gói gọn trong một câu khẩu hiệu, một bài hát, một bức tranh, một ví dụ, một hình tượng, sau đó dùng mọi phương thức không ngừng lặp đi lặp lại tăng cường nó, tạo cho người Trung Quốc một loại “mỹ cảm” biến dị cứng nhắc. “Mao thi từ” (Lời thơ của Mao) được tung hô là “Thơ của Sơn Đại Vương”, “Mao văn thể” (thể văn của Mao) thô lỗ bất nhã, “Mao thể thư pháp” ngang ngược bá đạo được lặp đi lặp lại, mô phỏng, sùng bái, có người còn cho rằng chúng là đỉnh cao của nghệ thuật Trung Quốc thế kỷ 20. Ngày nay, thứ gọi là “Màu đỏ kinh điển” vẫn đang hoành hành tại Trung Quốc, sự thực này đã làm rõ, tâm lý ỷ lại của dân chúng vào thứ văn nghệ tà ác kia do Trung Cộng cố ý vun đắp suốt một thời gian dài vừa qua vẫn chưa hề mất đi tác dụng.

4) Từ “kẻ hắc thủ nhìn thấy được” cho đến “kẻ hắc thủ không nhìn thấy được”

Muốn nhìn thấu văn học đảng của Trung Cộng, cần phải giải quyết một vấn đề. Văn học đảng sau khi Trung Cộng kiến lập chính quyền, có thể dùng cuộc Cách mạng Văn hóa (CMVH) phân thành hai giai đoạn. Giai đoạn đầu từ năm 1949 tới CMVH; giai đoạn sau là từ khi CMVH kết thúc tới nay. Giai đoạn trước “đảng” lên đủ loại ‘dây cót’, dốc hết sức cắt đứt cái mệnh của văn hóa, chuyên quyền về văn nghệ, càng quấn càng chặt, vòng tròn càng vẽ càng nhỏ, là một quá trình “thu”. Nhưng sau CMVH, khẩu hiệu “văn học phục vụ đấu tranh giai cấp” bị vứt bỏ, thay vào đó là “đột phá vùng cấm”, “giải phóng tư tưởng”, khuôn phép trói buộc các tác gia sáng tác càng ngày càng ít, dường như là một quá trình “thả”. Văn đàn Trung Quốc hiện nay, với những tác gia mỹ nữ, “văn học lưu manh”, “sáng tác bằng nửa thân dưới”, hoa hòe hoa sói, đúng là “giải phóng” hết mức có thể, với tình hình như vậy, làm sao có thể lý giải được sự thao túng lợi dụng văn học của Trung Cộng?

Theo nhân khẩu học thông thường, 25 năm được coi là một thế hệ. Từ năm 1949 đến năm 1978 (Trung Cộng 11 lần tổ chức Đại hội toàn quốc, mỗi lần ba phiên họp toàn thể) tính tổng cộng là 29 năm. Những người sinh ra trước năm 1920, thì đến năm 1949 trước khi Trung Cộng chiếm được chính quyền khoảng trên 30 tuổi, người đã hình thành thế giới quan, đến năm 1978 cũng đã 60 tuổi hoặc già hơn, đã quá tuổi về hưu. Lúc đó những người đang hoạt động trong các ngành các nghề về cơ bản đều đã uống thuốc độc của Trung Cộng mà trưởng thành; nói cách khác, tới cuối những năm 1970, Văn hóa đảng về cơ bản đã được xác lập. Cho nên Trung Cộng thay đổi sách lược, rút lui một cách có chừng mực ra khỏi một vài lĩnh vực, từ một “kẻ hắc thủ có thể nhìn thấy” trước kia có mặt ở khắp mọi nơi thành một “kẻ hắc thủ không thể nhìn thấy” đứng sau hậu trường, về tổng thể Văn hóa đảng “thao túng trên vĩ mô” để rót ngược trở lại vào đầu óc dân chúng. (Đương nhiên, nếu cần thì hắc thủ có thể nhúng tay bất cứ lúc nào.)

Căn cứ xác lập của Văn hóa đảng chính là: không đợi “đảng” trực tiếp lãnh đạo, nền văn học đã trải qua “giải phóng tư tưởng”, được “thả” ra, nhưng vẫn hoàn toàn phù hợp với nhu cầu chính trị của Trung Cộng. Sau Cách mạng Văn hóa “nền văn học thương tích” và “văn học phản tỉnh” nổi tiếng, giống như khuôn đúc với chính sách của Trung Cộng trong việc giải thích Cách mạng Văn hóa – phạm sai lầm là Lâm Bưu và bè lũ bốn tên [14], “trào lưu tư tưởng cực tả”, “đảng” vẫn vĩ đại quang minh chính xác, không chỉ dũng cảm thừa nhận sai lầm mà còn giỏi sửa sai.

Truy đến tận gốc thì tìm ra được rằng, “đảng” chiểu theo Thuyết tiến hóa mà suy luận ra thời đại hoang dã vốn không tồn tại, dẫn dắt người ta đi đến kết luận rằng “sai lầm của đảng” là do “những độc hại cặn bã còn sót lại từ thời phong kiến”; sự lưu động của “dòng ý thức” [15] là nhằm tạo ra sự “thổ lộ cùng đảng” và nhìn đắng cay nhớ ngọt bùi; Cảnh tả thật chính là cuộc sống hèn mọn của người dân thấp cổ bé họng nơi đầu đường xó chợ, thay “đảng” bảo mọi người rằng: “nhân sinh chính là phiền não, vận mệnh không thể đoán trước”, do vậy không cần lại phải nói ra nói vào, bới lông tìm vết về “đảng”, thì mọi người sống chẳng dễ dàng gì, “sống quả thực không dễ dàng”, “sống được là tốt rồi”, “cần phải trân trọng cục diện vô cùng tốt đẹp không dễ gì có được này”. Những tác phẩm văn học coi châm biếm và trào phúng là sở trường thì thực tế là đang dùng rác rưởi của một ngôn ngữ khác mà phản đối rác rưởi trong ngôn ngữ của đảng, ám thị rằng nếu không cùng “đảng” thông đồng làm càn, thì chỉ có thể dùng việc đùa giỡn với đời để chứng minh giá trị của cá nhân; nền văn học khiêu dâm không thể khống chế của Trung Quốc với đủ các hiện tượng loạn tính tạo thành vấn đề đạo đức giới tính, lại khiến cho mọi người có giả tướng về tự do ngôn luận trong “thiên hạ của đảng”.

Đời sống văn hóa Trung Quốc ngày nay đã lộ ra bộ mặt cực đoan phức tạp. Chỉ khi thực sự nhận rõ bộ mặt thật của Trung Cộng mới có thể giải quyết nhanh gọn và không bị mê hoặc bởi các loại giả tướng. Trung Cộng vì muốn duy hộ sự sinh tồn của bản thân mà không từ thủ đoạn, cũng không có giới hạn. Nó có thể theo phương châm “Những gì kẻ địch ủng hộ thì chúng ta phản đối, những gì kẻ địch phản đối thì chúng ta ủng hộ”, nhưng nó cũng có thể phản đối điều kẻ địch phản đối, ủng hộ điều kẻ địch ủng hộ, chỉ cần “kẻ địch” không phản đối sự tồn tại của nó. Nó có thể ăn nói hùng hồn, nói lời thô tục tà ác, cũng có thể nói năng mềm mỏng, ngọt ngào, vừa có quan điểm cơ bản, vừa đa dạng hóa; vừa có “bốn điểm kiên định” vừa có “hai trăm phương châm”. “Mọi thứ đều biến đổi tùy theo thời gian, địa điểm, điều kiện”. Sau khi Lenin lên đến đỉnh cao quyền lực đã nói: “Kẻ chiến thắng không nên bị khiển trách.” Khi Stalin khiếp sợ bất an trút hơi thở cuối cùng, hắn lại nói: “Khi đối diện với kẻ địch mạnh, dẫu biết rõ rằng không thể công phá cũng phải hiên ngang tuốt lưỡi kiếm sắc bén. Dẫu ngã xuống, cũng phải trở thành một ngọn núi, một đỉnh cao”, tô vẽ bản thân thành một anh hùng trong bi kịch với động cơ cao thượng.

“Tôi phải có trách nhiệm với lịch sử… tôi thừa nhận, đối thủ có thể hùng mạnh hơn tôi rất nhiều, nhưng đối phương đã tuốt kiếm, lẽ nào tôi có thể không tuốt kiếm sao? Tôi muốn thử vận may một chút, cứ coi như thời đại của tôi đã kết thúc, nhưng cứ nhất định phải do tôi phải đặt dấu chấm hết sao?” (trích từ tác phẩm “Lượng kiếm”)

“Sinh tồn là gì? Sinh tồn chính là sống không từ thủ đoạn. Anh có thể đê tiện, anh có thể vô sỉ, anh cũng có thể hạ lưu. Chỉ cần có thể sống được trong thế giới này là được….. ăn cỏ chưa hẳn đã là nhân từ, ăn thịt chưa hẳn đã là tàn nhẫn. Tôi là một con sói, sinh ra là một con sói, một con sói nanh vuốt sắc nhọn, máu tươi và chết chóc là mạch sống cho sinh mệnh của tôi.” (trích từ tác phẩm “Chó sói”)


Ảnh: Epoch Times

Văn học thời đại nào cũng đều phản ánh thời đại đó theo phương thức trực tiếp hoặc gián tiếp. Trong lời của hai đoạn tiểu thuyết bán chạy ở Trung Quốc Đại lục này, một đoạn giành được vị trí “anh hùng thất bại”, vị trí tuyên truyền chiến lược cuối cùng, còn một đoạn thì thể hiện quyền lực một cách trần trụi. Những hiện tượng này cho thấy văn học đảng không chỉ không rút lui ra khỏi vũ đài lịch sử, mà còn khuếch tán trong rất nhiều thể loại tác phẩm khác nhau, khiến người ta càng khó phân biệt, khó ngăn chặn hơn.

Suốt mấy chục năm bị nhồi nhét bởi các văn nhân do ác đảng khống chế, người Trung Quốc đã tiếp thụ những giá trị quan của Trung Cộng, thù hận trở thành cao thượng, sát nhân phóng hỏa trở thành chính nghĩa, bạo chúa tiểu nhân, thổ phỉ và côn đồ trở thành đối tượng được sùng bái, đảng tính tàn nhẫn đã thay thế bản tính lương thiện tương thân tương ái giữa người với người, kính Thiên tín Thần trở thành mê tín ngu muội… tiêu chuẩn thiện ác bị đảo lộn, văn học mất đi công dụng hun đúc tình cảm tư tưởng, trở thành tấm màn che cho Trung Cộng mặc sức tô vẽ bản thân, che đậy tội ác của nó. Xét về ý nghĩa, văn nhân của tà đảng, không còn nghi ngờ gì nữa, đã trở thành kẻ sát nhân đồng lõa đồng mưu với tà đảng.

Comments

Popular posts from this blog

Chương 3 : Các thủ đoạn nhồi nhét : Cưỡng chế người dân đọc sách của Marx, Engels, Lenin, Stalin, và Mao Trạch Đông

Chương 2: Cải tạo tư tưởng một cách hệ thống : Phê phán Nho – Thích – Đạo