Chủ nghĩa Cộng sản lấy tiêu hủy gia đình làm mục tiêu, cái gien dâm loạn của Chủ nghĩa Cộng sản
1. Gia đình truyền thống mà Thần lưu lại cho con người
Trong văn hóa truyền thống phương Đông và phương Tây, hôn nhân là do Thần định đoạt, do “Ông Trời tác hợp”, không thể hủy hoại. Nam giới và phụ nữ đều do Thần tạo ra dựa theo hình tượng của bản thân mình, đều là những chúng sinh bình đẳng trước mặt của Thần. Nhưng Thần đồng thời cũng tạo nên sự khác biệt về sinh lý giữa nam và nữ, quy định ra những vai trò khác nhau của nam và nữ.
Trong quan niệm truyền thống phương Tây, người phụ nữ là xương của xương người đàn ông , là thịt của thịt người đàn ông. [5] Người chồng phải yêu thương, bảo vệ vợ mình giống như bảo vệ thân thể của mình vậy, thậm chí sẵn sàng “xả thân” để bảo vệ cho vợ. Còn người phụ nữ cũng phải phối hợp và trợ giúp chồng, để cho “hai vợ chồng như một”. Nam giới chịu trách nhiệm vất vả làm lụng nuôi gia đình; phụ nữ “mang nặng đẻ đau”, đều có nguyên nhân từ những tội lỗi khác nhau của con người.
Tương tự, trong văn hóa truyền thống phương Đông, nam giới là dương, tượng trưng cho trời và mặt trời, không ngừng vươn lên, gánh vác trách nhiệm, dầm mưa dãi nắng, bảo vệ gia đình vượt qua khó khăn; nữ giới là âm, tượng trưng cho đất, lấy đức dày mà chở vạn vật, phải mềm mỏng, biết chăm lo cho mọi người, có nghĩa vụ trợ giúp chồng, dạy dỗ con cái. Nam nữ mỗi người làm tốt vai trò của mình mới có thể đạt được âm dương hòa hợp, con cái mới có thể trưởng thành một cách lành mạnh.
Gia đình truyền thống phát huy chức năng truyền thừa tín ngưỡng, đạo đức, và duy trì ổn định xã hội. Gia đình là cái nôi, là sợi dây gắn kết, truyền thừa các giá trị. Người thầy đầu tiên trong cuộc đời đứa trẻ chính là cha mẹ. Nếu đứa trẻ qua lời nói và cử chỉ mẫu mực của cha mẹ mà học được các đức tính truyền thống tốt đẹp như vô tư, khiêm tốn, biết ơn, kiên nhẫn, như vậy nó sẽ được lợi ích suốt đời.
Cuộc sống hôn nhân truyền thống cũng giúp nam giới và phụ nữ cùng phát triển lành mạnh về mặt đạo đức. Nó đòi hỏi người chồng và người vợ phải có thái độ hoàn toàn mới đối với tình cảm và dục vọng của bản thân, biết quan tâm, bao dung lẫn nhau. Điều này khác biệt rất lớn về bản chất so với việc sống chung, hai người vui vẻ thì ở với nhau, không vui vẻ thì chia tay, kiểu quan hệ này không khác gì quan hệ bạn bè thông thường, cũng không cần ràng buộc bởi hôn nhân. Marx còn cổ xúy cho “tình dục không cần bất cứ ước thúc nào” [6], tất nhiên chính là phải giải thể hôn nhân truyền thống, cuối cùng tiêu hủy gia đình truyền thống.
2. CNCS lấy tiêu hủy gia đình làm mục tiêu
CNCS cho rằng gia đình là hình thức tồn tại của chế độ tư hữu. Muốn tiêu hủy chế độ tư hữu thì tất yếu phải tiêu hủy gia đình. Giáo lý của CNCS coi kinh tế là yếu tố then chốt để chỉ đạo quan hệ gia đình, chủ nghĩa Marx – Freud khi đó lại coi ham muốn nhục dục của con người là then chốt để lý giải vấn đề gia đình, hai tư tưởng này đều có điểm tương đồng là gạt luân lý đạo đức cơ bản của con người sang một bên, tôn sùng vật chất, dục vọng, kỳ thực là biến con người thành con vật. Đó là thứ tư tưởng méo mó, làm hủy hoại gia đình qua việc làm biến dị tư tưởng của con người.
CNCS có một học thuyết rất mê hoặc lòng người, đó là phải “giải phóng toàn nhân loại”. Đây không chỉ là sự giải phóng mang ý nghĩa kinh tế, nó cũng bao hàm việc “giải phóng” bản thân nhân loại. Đối lập với “giải phóng” là áp bức. Vậy thì sự áp bức nào khiến nhân loại phải “giải phóng” bản thân? Câu trả lời của CNCS là: sự áp bức đến từ quan niệm của bản thân, quan niệm này bị đạo đức xã hội truyền thống ước chế: chế độ “phụ quyền” trong gia đình truyền thống áp bức phụ nữ, đạo đức về tình dục truyền thống áp bức nhân tính, v.v..
Lý luận về “giải phóng bản thân” của CNCS được các phong trào nữ quyền và đồng tính luyến ái của các thế hệ sau kế thừa và phát triển, dẫn đến các quan niệm phản truyền thống như phản đối gia đình và hôn nhân truyền thống, giải phóng tình dục và đồng tính luyến ái… rầm rộ khởi lên, trở thành công cụ quan trọng để ma quỷ tiêu hủy gia đình. CNCS phải lật đổ hết thảy quan niệm đạo đức truyền thống, điểm này được thể hiện rõ trong “tuyên ngôn CNCS”.
3. Cái gien dâm loạn của CNCS
Tà linh cộng sản nghĩ ra trăm phương ngàn kế để phá hoại gia đình truyền thống. Từ đầu thế kỷ 19, nó đã lựa chọn những nhân vật đại biểu cho CNXH không tưởng để gieo những hạt mầm tư tưởng của nó. Robert Owen – người khai mở tư tưởng của CNCS đã thành lập công xã CNXH không tưởng “Sự hòa hợp mới” (New Harmony) tại bang Indiana, Mỹ vào năm 1824 (hai năm sau đã kết thúc thất bại). Vào ngày thành lập công xã, ông tuyên bố rằng công xã sẽ giải cứu nhân loại khỏi “tam vị nhất thể của ác ma lớn nhất”; ông giải thích từ “ác ma cực lớn” là: “Tôi muốn chỉ tài sản tư hữu và những tôn giáo và hôn nhân hoang đường dựa trên cơ sở tài sản tư hữu”.
“Nay tôi tuyên bố tới các vị và toàn thế giới, rằng Con người, cho đến giờ phút này, ở mọi nơi trên trái đất này, là nô lệ của “tam vị nhất thể của ác ma lớn nhất” để áp đặt tội lỗi về mặt tinh thần và thân thể cho cả nhân loại. Tôi muốn nói đến sự tư hữu hay tài sản cá nhân – những tôn giáo ngu muội và hoang đường – và hôn nhân dựa trên tài sản cá nhân với mấy thứ tôn giáo hoang đường này.” [7]
Sau khi Owen qua đời, một người theo CNCS không tưởng có tầm ảnh hưởng lớn nữa là Charles Fourier, người Pháp. Tư tưởng của ông đã ảnh hưởng sâu sắc đến Marx và những người theo chủ nghĩa Marx sau này. Sau khi ông chết, các học trò của ông đã mang tư tưởng của ông vào cuộc Cách mạng năm 1848 và Công xã Paris, sau đó lại truyền sang Mỹ. Charles Fourier là người đầu tiên đưa ra thuật ngữ “nữ quyền” (tiếng Pháp là “féminisme”). Trong xã hội cộng sản lý tưởng của ông (gọi là “Phalanx”), gia đình truyền thống bị dè bỉu, khinh bỉ, phái quần giao hoan lạc được ca tụng để giải phóng hoàn toàn những tình cảm mãnh liệt của con người; ông cho rằng xã hội công bằng nên chăm sóc cho những người “yếu thế” (như người già hoặc người khuyết tật), để bảo đảm mọi người đều có “quyền” được thỏa mãn về tình dục. Ông cho rằng sự thỏa mãn về tình dục theo bất cứ hình thức nào, kể cả cuồng dâm, bạo lực tình dục, thậm chí cả sự loạn luân giữa các thành viên trong gia đình và cả sự giao phối với súc vật, chỉ cần không phải là cưỡng ép, đều nên được cho phép. Do vậy, có thể nói ông là người tiên phong cho “lý luận tình dục đồng giới” – một nhánh mới của phong trào đồng tính luyến ái (LGBTQ) đương thời.
Dưới ảnh hưởng của Owen và đặc biệt là Fourier, vào thế kỷ 19, tại Mỹ đã xuất hiện mấy chục công xã CSCN không tưởng, nhưng cũng chỉ như phù du sớm nở tối tàn, sau đó đều thất bại. Tồn tại được lâu nhất trong số đó là Công xã Oneida, thành lập dựa trên cơ sở nền tảng lý luận của Fourier, duy trì được 32 năm. Công xã này xem thường hôn nhân truyền thống một vợ một chồng, cổ xúy việc quần hôn lạm giao. Các xã viên thông qua việc phân phối lại hàng tuần để có cơ hội “công bằng” được “ái ân” với bất cứ người nào mà mình tâm đầu ý hợp. Cuối cùng, người sáng lập John Humphrey Noyes vì lo sợ luật tố tụng của giáo hội đã bí mật bỏ trốn lưu vong, công xã bị ép phải bỏ chế độ cộng thê. Lý thuyết của Noyes sau này trở thành “Kinh Thánh của CNCS”.
Cái gien di truyền dâm loạn của CNCS là hệ quả tất yếu trong lý luận phát triển của nó. Ngay từ lúc bắt đầu, ma quỷ của CNCS đã mê hoặc, khiến con người quay lưng lại với các giáo nghĩa của Thần, phủ nhận Thần, phủ nhận nguồn gốc của tội lỗi (Theo đạo Cơ Đốc, tội lỗi là do Adam và Eva-thủy tổ của loài người phạm phải khi trộm ăn trái cấm trong vườn địa đàng mà Thượng đế không cho phép, sau này chỉ nguồn gốc tai họa và tội ác của con cháu đời sau).
Theo logic này, những vấn đề xã hội, vốn do sự sa đọa về đạo đức của con người gây ra, lại bị quy kết thành do chế độ tư hữu gây ra. CNCS khiến con người tin rằng tiêu hủy tài sản tư hữu thì con người sẽ không còn phải vì nó mà tranh giành nữa, nhưng cho dù sau khi tài sản đã được công hữu thì con người vẫn có thể tranh giành nhau để được phối ngẫu, do vậy những nhà CNXH không tưởng công nhiên đưa ra phương án giải quyết là “chế độ cộng thê”.
“Vườn lạc thú” của cộng sản mà những nhà sáng lập CNCS này sáng tạo ra đã trực tiếp thách thức gia đình truyền thống và cổ xúy cho “chế độ cộng thê”, cho nên các cộng đồng, giáo hội, chính phủ đều cho rằng điều này chính là thách thức đối với luân lý, đạo đức xã hội, do đó họ đã nhất trí lựa chọn hành động để áp chế nó. Tai tiếng bê bối của chế độ “cộng sản cộng thê” của CNCS lan truyền nhanh chóng.
Sự thất bại của công xã CNXH không tưởng đã cho Marx và Engels một bài học: Thời cơ công khai tuyên truyền chế độ cộng thê dâm loạn vẫn chưa chín muồi. Mặc dù vậy, mục tiêu “tiêu hủy gia đình” trong “tuyên ngôn của CNCS” vẫn không hề thay đổi, họ đã dùng một phương pháp kín đáo để tuyên truyền về lý luận tiêu hủy gia đình của mình.
Sau khi Marx qua đời, Engels xuất bản cuốn sách “Nguồn gốc gia đình, chế độ tư hữu và nhà nước theo nghiên cứu của Lewis H. Morgan” để làm rõ hơn lý luận về hôn nhân, gia đình của chủ nghĩa Marx. Trong sách viết:
“Sự xuất hiện của chế độ một vợ một chồng là để duy trì nòi giống, mục đích là để sinh con đẻ cái theo bổn phận làm cha mẹ không thể chối bỏ; việc sinh con đẻ cái ấy là cần thiết vì những đứa trẻ sau này sẽ trở thành người kế thừa tài sản của cha chúng. Nó khác với hôn nhân dựa trên tình cảm đôi lứa, khiến hôn nhân không được giải thể theo ý nguyện của mỗi bên”. [8]
Engels gọi “chế độ một vợ một chồng” này là hình thức dựa trên tài sản cá nhân, và rằng sau khi tài sản được công hữu hóa thì một hình thức “hôn nhân” hoàn toàn dựa trên cơ sở tình yêu “hoàn toàn mới” sẽ xuất hiện. Không có sự ước thúc về tài sản, hôn nhân chỉ thuần túy dựa trên sự ái mộ, nghe ra thì thật là cao thượng – nhưng không phải vậy.
Những biện giải của Marx và Engels trong thực tiễn thực thi CNCS lại cho thấy chẳng có chút sức thuyết phục nào. Tình cảm là thứ không đáng tin cậy, hôm nay yêu người này, ngày mai yêu người khác, điều này chẳng phải đồng nghĩa với việc cổ xúy cho tình dục bừa bãi sao? Hiện tượng tình dục bừa bãi sau khi chính quyền cộng sản Liên Xô và Trung Quốc thành lập (xem chương sau) chính là kết quả của việc thực thi chủ nghĩa Marx.
Quan hệ vợ chồng không thể luôn thuận buồm xuôi gió, nhưng lời thệ ước trong hôn nhân truyền thống “sống với nhau đến đầu bạc răng long” chính là lời thệ ước với Thần. Điều này cho thấy, khi bắt đầu cuộc hôn nhân, hai bên đã chuẩn bị cho việc tình cảm của họ có thể gặp khó khăn trong tương lai, và cả hai cùng đồng lòng quyết tâm đối mặt với mọi hoàn cảnh khó khăn đó. Sợi dây gắn bó hôn nhân không chỉ là tình cảm, mà còn là trách nhiệm, là sự cảm thông, chăm sóc đối với vợ/chồng mình, đối với con cái và gia đình, điều này khiến cho cả hai người trở thành những người đàn ông và phụ nữ trưởng thành, có trách nhiệm và đạo đức.
Trong “Nguồn gốc gia đình, chế độ tư hữu và nhà nước”, Marx và Engels tuyên bố rằng trong xã hội cộng sản thì tài sản được sở hữu chung, việc nhà trở thành nghề nghiệp, sinh con cũng không cần phải trông nom, bởi vì nhà nước sẽ chăm lo và giáo dục trẻ em.
“Như vậy hoàn toàn không cần lo lắng đến bất cứ ‘hậu quả’ gì, mà tất cả điều này chính là áp lực về kinh tế và đạo đức chủ yếu nhất ngày nay, nó cản trở cô gái hiến dâng hết mình cho chàng trai mà mình yêu. Điều này chẳng phải ngăn trở họ được quan hệ tình dục không chịu bất cứ ràng buộc nào hay sao? Cùng theo đó, xã hội ngày càng khoan dung và xem nhẹ đối với trinh tiết của người phụ nữ”. [9]
Trong những tuyên bố của Marx, mặc dù thường xuyên xuất hiện những từ ngữ như “tự do”, “giải phóng”, “yêu đương” để che đậy bản chất thực, kỳ thực là cổ xúy, kêu gọi vứt bỏ trách nhiệm đạo đức của con người, khiến cho hành vi của con người hoàn toàn bị dục vọng chi phối. Nhưng ở thời đại của Marx và Fourier, đa số dân chúng vẫn chưa hoàn toàn quay lưng lại với giáo lý của Thần, cho nên người ta vẫn còn khá đề phòng trước tư tưởng dâm loạn của CNCS, mặc dù bản thân Marx cũng không thể tưởng tượng được rằng nhân loại sau thế kỷ 20 lại lấy đủ mọi lý do để tiếp nhận tư tưởng dâm loạn của ông và thực thi mục tiêu tiêu hủy gia đình của ông ta.
Ma đỏ đã an bài những kẻ gieo rắc những hạt giống biến dị và dâm loạn, cũng an bài một cách có hệ thống nhằm dẫn dụ nhân loại khuất phục trước dục vọng mà rời xa giáo lý của Thần, dần dần rớt xuống, cuối cùng, để nó thực hiện mục tiêu “tiêu hủy gia đình”, biến dị nhân tính, khiến con người rơi vào sự khống chế của ma đỏ.
Comments
Post a Comment