Chương 3 : Các thủ đoạn nhồi nhét : Lợi dụng sách giáo khoa để nhồi nhét Văn hóa đảng

 

4. Lợi dụng sách giáo khoa để nhồi nhét Văn hóa đảng

Việc phán đoán sự vật của một người chủ yếu được quyết định bởi hai nhân tố: một là thông tin mà người này nắm vững, hai là phương thức xử lý thông tin, tức là phương thức tư duy. Đối với người hiện đại, thông tin truyền thông là nguồn thông tin quan trọng nhất, giáo dục tại trường học là lực lượng chủ yếu nhất nhào nặn phương thức tư duy. Do vậy Trung Cộng muốn nhồi nhét Văn hóa đảng ắt phải coi trọng thông tin truyền thông và sách giáo khoa của học sinh. Vấn đề thứ nhất đã được nói ở mục 1, tại đây chủ yếu bàn về tác dụng nhồi nhét của sách giáo khoa của Trung Cộng.

Giáo dục của Trung Quốc trước năm 1949, bao gồm ba hình thức là quốc lập, tư thục và lớp học của giáo hội. Sau năm 1949, tất cả các trường học đều bị quốc hữu hóa, chính quyền Trung Cộng lúc đó đã thông qua “chế độ phụ trách Đảng ủy”, chế định pháp luật, mệnh lệnh hành chính và các loại phương thức khác nhằm nắm giữ quyền lực đối với trường học, “thuần phục” giáo viên, viên chức bằng phương thức thanh lọc tổ chức, cải tạo tư tưởng, dùng sách giáo khoa để tẩy não thanh thiếu niên mới trưởng thành. Mao Trạch Đông nói: “Một tờ giấy trắng không có áp lực gì, dễ viết ra những lời văn đẹp nhất, mới nhất, có thể vẽ những bức vẽ đẹp nhất, mới nhất.” Trung Cộng tô vẽ bừa bãi vào tâm hồn thanh thiếu niên, giáo dục đã trở thành trận địa trọng yếu để nhồi nhét Văn hóa đảng.

Giáo dục bắt đầu từ thứ gọi là “khu giải phóng”, Trung Cộng bắt đầu xây dựng giáo trình chính trị có hệ thống. Sau khi giành được chính quyền, Bộ giáo dục của Trung Cộng dần dần đặt ra quy định đối với giáo dục chính trị, cưỡng chế trường học các cấp thi hành. Những năm 50, các môn chính trị trong các trường cao đẳng, đại học bao gồm: “Cơ sở chủ nghĩa Marx – Lenin”, “Lịch sử phát triển xã hội”, “Lịch sử cách mạng Trung Quốc”, “Cơ sở kinh tế chính trị học” v.v.. Trong thời kỳ không có vận động cách mạng, những loại môn học này có thể chiếm từ một phần mười đến một phần năm tổng số thời lượng các bài giảng. Đến khi có vận động chính trị, thì kiểu giảng dạy rập khuôn này hiển nhiên không đạt yêu cầu. Trong các cuộc vận động Phản hữu (Chống cánh hữu), Tứ thanh (Thanh trừ bè lũ bốn bên) có đủ kiểu giáo dục chính trị muôn màu muôn vẻ như các cuộc vận động, học tập chính trị, nghe báo cáo, huấn luyện quân sự, học công học nông và đủ các loại hình giáo dục chính trị khác, cộng thêm những bài giảng trên lớp, hầu như chiếm tới hơn một nửa thời gian học trên lớp của học sinh. Nhiều như vậy nhưng Mao Trạch Đông vẫn cho rằng trước năm 1966 “phần tử trí thức giai cấp tư sản đã thống trị trong các ngôi trường của chúng ta”. Năm 1967, Trong “Thông tư liên quan tới Đại Cách mạng Văn hóa giai cấp vô sản tiểu học” của Trung ương Trung Cộng đã nêu rõ: “Học sinh tiểu học từ lớp 1 đến lớp 4 chỉ cần học Ngữ lục của Mao Chủ tịch, thêm học viết chữ, học hát những ca khúc cách mạng, học tập một số môn toán và khoa học thường thức. Các học sinh lớp 5, 6 học ‘Ngữ lục’, ‘Lão tam thiên’ và ‘3 đại kỷ luật 8 điều chú ý’ của Mao Chủ tịch, học tập ’16 điều’, học hát những ca khúc cách mạng.” Đây chỉ là một phần nhỏ trong vở hài kịch mang tên “cách mạng giáo dục”.


Ảnh: Epoch Times

Cuộc vận động tăng cường tẩy não toàn dân trong hơn 10 năm này đã để lại hậu quả thảm khốc cho đạo đức xã hội và tâm lý dân tộc. Hiện nay chúng ta hãy xem xem, “thời kỳ bình thường” từ khi “cải cách mở cửa” tới nay, Trung Cộng đã nhồi nhét Văn hóa đảng vào đầu óc học sinh như thế nào.

1) Lớp chính trị: Lừa gạt dễ như trở bàn tay

(1) Môn học nhiều, tiết học dài, độ che phủ rộng, yêu cầu nghiêm

Thời cổ, trẻ em đi học, mở đầu đều học kiến thức thông thường như Lễ, Nhạc, Tiễn, Ngự, Thư, Số (lễ tiết, âm nhạc, bắn tên, cưỡi ngựa, thư pháp, toán học), tài liệu giảng dạy vốn đã bao hàm đạo lý làm người trong đó. Tại những nước phương Tây từ cận đại tới nay, trẻ em ngoài học những môn văn hóa còn học giáo dục công dân, nội dung học tập là quyền lợi và nghĩa vụ của công dân xã hội dân chủ. Nhưng Trung Cộng lại coi việc giáo dục thành công cụ đấu tranh giai cấp, mục đích của giáo dục không phải là để bồi dưỡng một cá nhân có nhân cách kiện toàn hay một công dân có lý trí và trách nhiệm, mà là để tạo ra những người kế tục “nghe lời đảng, đi theo đảng”. Mục đích giáo dục là khác nhau đã quyết định nội dung và phương pháp giáo dục cũng khác nhau.

Từ tiểu học đến đại học (đây là cách nói khái quát, kỳ thực việc nhồi nhét  bắt đầu từ nhà trẻ, một mạch cho tới tiến sĩ), học sinh của Trung Cộng luôn phải học ít nhất một môn chính trị, thời gian học thì dài, giáo trình thì nhiều, yêu cầu lại nghiêm ngặt, đúng là chuyện hiếm có tự cổ chí kim, trên phạm vi cả trong và ngoài nước.

Trong những giai đoạn khác nhau, môn học này có các tên gọi và điểm nặng nhẹ khác nhau. Tiểu học thì gọi là “Đạo đức tư tưởng”, trung học cơ sở gọi là “Chính trị tư tưởng”, “Lịch sử phát triển xã hội”, “Giáo dục lòng yêu nước”, trung học phổ thông gọi là “Tu dưỡng thanh thiếu niên”, ” Triết học thường thức”, “Kinh tế thường thức”, “Nhiệm vụ xu thế”, trong trường đại học gọi là “Triết học chủ nghĩa Marx”, “Lịch sử cách mạng”, “Kiến thiết Xã hội chủ nghĩa”, “Pháp luật thường thức” v.v.. Những môn học này dù có tên gọi khác nhau, nhưng tôn chỉ thì chỉ có một, đó chính là chứng minh “chỉ có Đảng Cộng sản mới có thể cứu Trung Quốc, chỉ có Chủ nghĩa xã hội mới có thể phát triển Trung Quốc”. Những môn học này ước tính chiếm khoảng gần 1/5 tổng thời gian học của học sinh.


Ảnh: Epoch Times

Điều cần chỉ ra là, những môn học này không phải là những môn học tự chọn có hay không đều được, mà là những môn bắt buộc tuyệt đối, môn trọng tâm, được liệt vào danh mục thi bắt buộc tại các cấp. Trong một số kỳ thi lên lớp, những ai không đạt tiêu chuẩn chính trị tuyệt đối không thi đỗ.

(2) Tô vẽ cho Văn hóa đảng thành “đức dục”, “thường thức”, “nguyên lý”, “cơ sở”

Văn hóa Đảng là một trò hề lừa người nói không thành có, nhưng muốn mọi người tiếp thụ một cách không phản kháng, thì phải tô vẽ cho nó thành lẽ tất nhiên, từ cổ đã vậy, thiên hạ đều như vậy, “đặt vào bốn bể đều đúng, so với cổ kim đều thông suốt”. Cho nên, giáo dục thù hận giai cấp phản nhân tính được gọi là “giáo dục đạo đức”, những điều trái với nhận thức thông thường gọi là “thường thức”, lý luận lệch lạc được gọi là “nguyên lý”, nước không nguồn, cây không gốc được gọi là “cơ sở”, dường như nhân dân toàn thế giới đang học cùng một thứ. Những thanh thiếu niên không có một chút khả năng chống cự đã tiếp nhận toàn bộ thế giới quan, nhân sinh quan lệch lạc giả tạo này, từ đó trở nên nhỏ nhen và thù hận, tưởng rằng tất cả những người bình thường đều suy xét vấn đề như vậy, còn Trung Quốc cộng sản mới là hình mẫu của thế giới, động một chút là lên án những quan điểm khác mình là “phản động”, “cặn bã trôi nổi”, “không ngừng muốn tiêu diệt chúng ta”. Một học sinh học xong môn ‘Lịch sử phát triển xã hội’ đã hỏi thầy giáo rằng: “Nếu đã nói Chủ nghĩa xã hội tất nhiên sẽ thay thế Chủ nghĩa tư bản, vậy những nhà tư bản không thuận theo trào lưu lịch sử, họ thực sự hồ đồ, hay giả vờ hồ đồ?”

Lịch sử triết học tại đại học lấy Marx làm vạch ngăn, triết học trước Marx ở Phương Tây gọi là triết học cổ điển, không phải là chủ nghĩa duy vật máy móc thì cũng là chủ nghĩa duy tâm, đều là chưa phát hiện được chân lý; triết học sau Marx được gọi là triết học hiện đại, tất cả đều mang theo cái hơi thở suy tàn, thối nát của chủ nghĩa tư bản đang giãy chết. Truyền thống của Trung Quốc, nếu còn lại một chút thành phần hợp lý, thì cũng là manh nha của phép biện chứng hoặc chủ nghĩa duy vật, là “dự báo thiên tài” của tổ tiên. Các loại sách “tư liệu lịch sử triết học tham khảo” đã thuận theo kết luận này mà cắt xén lịch sử, lịch sử phong phú bị cắt xén thành lịch sử đấu tranh “hai tuyến đường”. Học thứ triết học như vậy, khiến con người cảm thấy dường như nếu “Trời không sinh ra Marx và Lenin, vạn cổ như đêm dài”, khiến người ta băn khoăn rằng nếu Marx, Engels, Lenin, Stalin, Mao đã vất vả phát hiện ra chân lý, giải quyết ổn thỏa mọi chuyện, thì vì sao không đốt bỏ hết những cuốn sách khác.

(3) Chính trị thời sự – nội dung giáo dục mang bản sắc của Trung Cộng đậm nét nhất

Trung Cộng là một đảng lưu manh hoàn toàn vô nguyên tắc, lập trường nguyên tắc của nó không ngừng biến hóa, dù là những người giỏi bắt kịp hình thế, cũng không nhất định biết được nên giữ thái độ nào đối với một sự kiện mới diễn ra. Giáo dục “chính trị thời sự” đã giải quyết được vấn đề khó khăn này. Trong kỳ thi vào đại học và cao đẳng và một số kỳ thi lớn khác, đều có những câu hỏi thi theo một tỷ lệ nhất định (thông thường là 10%) liên quan tới nội dung chính trị thời sự, bắt buộc học sinh phải giải thích theo đáp án của chính quyền đương thời của Trung Cộng. Trong quyển đề thi vào cao đẳng năm 2000, có một câu trắc nghiệm lăng mạ Pháp Luân Công.

(4) Nhồi nhét thù hận và lý luận lệch lạc bồi dưỡng ra thế hệ thanh niên đầy thù hận và thờ ơ về chính trị

Nói thẳng ra nhân quyền là quyền lợi cơ bản của người dân. Nhưng qua nhiều năm nhồi nhét, từ “nhân quyền” này trong mắt của tuyệt đa số người Trung Quốc đã trở thành một từ mang nghĩa xấu, ít nhất cũng là một từ khả nghi. Nghe đến từ này, phản ứng đầu tiên của mọi người là “người nói ra lời này có lẽ có mục đích chính trị đen tối, có lẽ mình phải thận trọng.”

Trung Cộng biết rằng thanh thiếu niên là những người thiếu năng lực phân biệt nhất, do vậy giáo dục thù hận nhất quán phải “bắt đầu từ khi còn thơ bé”. Sau năm 1999, những nội dung nhồi nhét thù hận đối với Pháp Luân Công đã đường hoàng tiến nhập vào tài liệu giảng dạy của đại học, trung học, tiểu học. Trong bài giảng thứ tư của tài liệu giáo dục “Tư tưởng chính trị” cho học sinh trung học phổ thông năm thứ 3 (tương đương với lớp 12), phiên bản năm 2003 của Nhà xuất bản Giáo dục nhân dân, ngang nhiên in “nội dung giảng dạy” phỉ báng Pháp Luân Công. Trong tiết 12 (quyển thứ 10) của cuốn “Tư tưởng đạo đức” của học sinh tiểu học, do Nhà xuất bản Giáo dục nhân dân in lần thứ ba vào tháng 11 năm 2003, không chỉ mượn lời của Lưu Tư Ảnh (cô bé 12 tuổi trong “vụ tự thiêu giả mạo“) để khiến học sinh tiểu học tại Trung Quốc Đại lục bị kích động thù hận bởi trò lừa bịp “Tự thiêu tại Thiên An Môn”, mà còn khiến cho tất cả học sinh tiểu học coi việc thù hận và phỉ báng Pháp Luân Công là hành vi tư tưởng chính diện “đương nhiên đúng”. Rất nhiều các bậc phụ huynh dẫu không cho rằng chính sách bức hại của Trung Cộng là đúng, nhưng để bảo vệ sự thuần khiết của trẻ nhỏ đã không nói với đứa bé những chuyện liên quan đến Pháp Luân Công. Không ngờ ý tốt của cha mẹ vừa hay lại khiến những đứa trẻ không chút đề phòng đã rơi vào tuyên truyền phiến diện độc đoán của Trung Cộng.

Ảnh: Epoch Times

Ngoài những đề mục trực tiếp nhồi nhét một lý luận nào đó được dẫn ra trên đây, trong các kỳ thi chính trị vẫn còn một loại câu hỏi, mà phải bóp méo tư duy của bản thân mới có thể đưa ra đáp án chính xác. Hèn chi có người nói “Phép biện chứng là một trò ảo thuật”. Sau thời gian dài huấn luyện, các học sinh đã học được cách “bóp méo” tư duy logic thông thường của mình, tiến nhập vào phương thức lý luận biến dị của người ra đề. Những học sinh được huấn luyện như vậy, hoặc sẽ hoàn toàn quen với cái phương thức lý luận tà ác này, trở thành “cây gậy đánh người của cánh tả”, “thanh niên bất bình”, hoặc sẽ triệt để vứt bỏ hết những nỗ lực lý giải những suy luận này, hài lòng với trạng thái “nhân cách phân liệt”. Những học sinh này có thể trả lời câu hỏi không chút hàm hồ, nhưng từ đó lại sinh ra sự chán ghét và thờ ơ sâu sắc đối với “triết học”, “nhân sinh quan”, “chính trị” v.v.. cuối cùng trở thành những cá nhân chỉ quan tâm đến lợi ích cá nhân mà không có chút ý thức cộng đồng.

(5) Tuyệt đối không buông lỏng đối với các lớp chính trị

Những năm gần đây, Bộ giáo dục của Trung Cộng dần dần nới lỏng việc khống chế việc soạn giáo án các môn học, nhưng tuyệt đối không nới lỏng với những môn chính trị. Nghe nói, sau sự kiện ngày 4 tháng 6 năm 1989, mỗi lần thay đổi lớn về nội dung của những môn chính trị chung trong trường đại học và cao đẳng đều phải được Ủy ban Thường vụ Cục chính trị Trung ương Trung Cộng thảo luận, phê duyệt. “Tiêu chuẩn cho giáo trình tư tưởng chính trị của bậc phổ thông trung học” xuất bản vào mùa xuân năm 2004 đã viết:

“Những môn tư tưởng chính trị tại các trường phổ thông trung học tiến hành giáo dục quan điểm cơ bản của Chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Mao Trạch Đông, lý luận Đặng Tiểu Bình và tư tưởng quan trọng “Tam đại biểu”,….dẫn dắt học sinh….lĩnh ngộ quan điểm cơ bản và phương pháp của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử, đề cao một cách thiết thực năng lực tham dự vào cuộc sống xã hội hiện đại, dần dần xây dựng nên lý tưởng chung về việc kiến thiết Chủ nghĩa xã hội mang bản sắc Trung Quốc, sơ bộ hình thành thế giới quan, nhân sinh quan, giá trị quan một cách chính xác, đặt định tố chất, cơ sở vì tư tưởng chính trị cho sự phát triển suốt cuộc đời.”

Xem ra, Trung Cộng thực sự muốn làm tới cùng.

2) Môn lịch sử: Lừa mình dối người

(1) Nắm giữ chính trị, lịch sử dường như là một môn nhánh của chính trị

Lịch sử chính là một tấm gương có thể đoán định hưng vong. Các quốc gia văn minh lớn trên thế giới đều bảo tồn một lượng lớn các tư liệu lịch sử, nhờ đó mọi người có thể thu được từ lịch sử những bài học phong phú bổ ích, là một tham chiếu quý báu cho việc lập thân xử thế và sự phát triển của dân tộc. Một dân tộc mà không hiểu rõ lịch sử của chính mình cũng giống như một người mất đi trí nhớ, hoàn cảnh đó đáng thương vô cùng.

Nhưng lịch sử của Trung Cộng lại không tốt đẹp gì, lịch sử chân thực là điều đại kỵ của Đảng Cộng sản. Nhằm chứng minh cho sự thống trị hợp pháp của mình, Trung Cộng ắt phải thao túng quyền giải thích lịch sử. Các học giả tay sai đã xuất ra đủ các chiêu bài, đưa lịch sử Trung Quốc vào “năm giai đoạn phát triển” giả tạo và rút ra kết luận là “lịch sử đã lựa chọn Đảng Cộng sản”. Đọc toàn bộ tài liệu giảng dạy về lịch sử Trung Quốc, ấn tượng mạnh là: chiến tranh nông dân là động lực phát triển của lịch sử, ngay từ khi xuất hiện Trần Thắng, Ngô Quảng [16], người dân Trung Quốc đã mỏi mắt trông ngóng sự xuất hiện của một chính đảng cách mạng nắm vững chân lý của lịch sử, có thể cứu họ thoát khỏi nước sôi lửa bỏng, sự trông mong này đã kéo dài 2.000 năm. Cuối cùng “Tiếng pháo của Cách mạng tháng 10 bùng nổ”, Đảng Cộng sản đã đến.

Chân tướng sự thực là, năm giai đoạn phát triển của lịch sử nhân loại chỉ thuần túy là hư cấu, hoàn toàn sai lệch so với lịch sử Trung Quốc. Nếu như nói, người Trung Quốc từ thời kỳ Chiến Quốc tiến nhập vào thời kỳ phong kiến, vậy nên giải thích thế nào về việc Tần Thủy Hoàng bỏ phong kiến lập quận huyện. Khổng Tử nói “ta theo pháp chế của nhà Chu” bôn ba vất vả khắp sáu nước, muốn khôi phục chế độ Lễ Nhạc thời Tam Đại (Hạ, Thượng, Chu), vậy mà Trung Cộng lại coi ông là người phát ngôn của “giai cấp chủ nô lệ”. Nhưng, vì sao tư tưởng nho gia của Khổng Tử ngược lại lại trở thành tư tưởng chính thống của “thời đại phong kiến”? Bịa đặt nhiều thì giải thích càng rối. Thể hệ dối trá ấy có đầy những lỗ hổng, Trung Cộng chỉ hận là năm đó đã không đốt hết toàn bộ 25 bộ lịch sử của Trung Quốc. [17]

(2) Che đậy, thay đổi, đoạn chương thủ nghĩa, khiến lịch sử chân thực vỡ vụn thành từng mảnh

Nguyên tắc chỉ đạo cho việc biên soạn giáo trình lịch sử của Trung Cộng là những gì mà “quan niệm duy vật lịch sử” không thể giải thích thì không giảng; những tội ác việc xấu của Đảng Cộng sản toàn bộ không giảng; những thánh nhân quân tử, minh quân hiền tướng thì chọn người mà giảng, khi giảng thì nhất định phải nhấn mạnh, xoáy sâu vào “tính giới hạn về lịch sử”; “tội ác của giai cấp phản động”; “khởi nghĩa nông dân” phải giảng nhiều, xoáy sâu; “hành trình vinh quang” của Đảng cộng sản cũng phải giảng nhiều, xoáy sâu.

Sách lịch sử của Trung Cộng cũng nói về Mạnh Tử, giảng rằng: “Lao tâm giả trị nhân, Lao lực giả trị ư nhân” (Người lao tâm trị người khác, người lao lực bị người khác trị) nhằm thể hiện bản tính của “Giai cấp bóc lột”; khi nói về Quốc Dân đảng thì vu oan cho họ rằng “tiêu cực kháng Nhật, tích cực phản cộng”, xưa nay không dám nói rằng đảng thực sự kháng Nhật chính là chính phủ Quốc Dân đảng, bản thân Trung Cộng “một phần kháng Nhật, hai phần ứng phó Quốc Dân đảng, bảy phần phát triển làm bản thân lớn mạnh”; nói về Cơ Đốc giáo nó không nói tới lời dạy “yêu người như chính mình”, mà chỉ nhấn mạnh “chiến tranh tôn giáo” và “tôn giáo là công cụ của Chủ nghĩa thực dân”; nói về các quốc gia Chủ nghĩa tư bản thì nhấn mạnh “tính giả tạo về dân chủ của giai cấp tư sản” và “mâu thuẫn nội tại về khủng hoảng kinh tế không thể khắc phục”.

Những năm gần đây, ngày càng có nhiều thanh niên học sinh ý thức được việc Trung Cộng sửa đổi lịch sử, muốn tự mình tìm đọc và nghiên cứu để hiểu rõ chân tướng lịch sử, nhưng lịch sử quan bị Trung Cộng nhồi nhét từ trước đã chiếm vị trí chủ chốt, nên rất khó đột phá về căn bản. Về phương diện cận đại, hiện đại, Trung Cộng thao túng tư liệu lịch sử, phong tỏa ngôn luận. Hiện nay, từ sau khi Trung Cộng khởi lên tại Trung Quốc Đại lục, dường như mọi người không có khả năng lý giải lịch sử chân chính một cách toàn diện. Do Trung Cộng sửa đổi lịch sử một cách hệ thống nên nếu muốn lý giải chân tướng lịch sử của Trung Quốc, thì không chỉ cần có khả năng nhìn thấu những lời dối trá trong những sự kiện cụ thể, mà quan trọng hơn là cần có khả năng vượt thoát khỏi cái khung lý luận của Trung Cộng, đứng tại đỉnh cao của toàn bộ lịch sử văn minh nhân loại mà nhìn nhận đối đãi với giai đoạn gần một thế kỷ mà tà linh Trung Cộng gây họa cho nhân gian. Về phương diện này, cuốn sách “Cửu bình Cộng sản Đảng” sẽ cung cấp cho chúng ta những tham chiếu rất tốt.


Ảnh: Epoch Times

3) Môn ngữ văn: lừa gạt trong vui vẻ

(1) Việc tuyển chọn các bài văn

Về phương diện nhồi nhét Văn hóa đảng cho học sinh, nếu như nói những môn chính trị diễn vai phản diện, thì các môn ngữ văn lại đóng vai chính diện. Những môn chính trị nhồi nhét một cách thô bạo như vũ bão, còn các môn ngữ văn lại rót vào một cách nhẹ nhàng như mưa xuân, tuy phương thức khác nhau, nhưng cùng chung một mục đích.

Việc lựa chọn các bài văn trong sách giáo khoa ngữ văn của  trung học và tiểu học cũng có nhiều quy định và phải mất rất nhiều công sức. Những bài văn của lãnh đạo Trung Cộng hoặc những bài văn liên quan đến họ phải chiếm một tỉ lệ nhất định, những “nhân vật anh hùng” của Trung Cộng (Vương Nhị Tiểu, Lưu Hồ Lan, Giang Tả, Khâu Thiểu Vân, Đổng Tồn Thụy, Hoàng Kế Quang, năm tráng sĩ núi Lang Nha, v.v..) cũng không thể vắng mặt. Hòng giải thích lý luận đấu tranh giai cấp của Trung Cộng, môn ngữ văn phải triển hiện một cách chính diện về giai cấp bị bóc lột từ cổ đến kim, từ trong nước ra ngoài nước, rồi lại đưa hình tượng địa chủ, nhà tư bản (như Chu Bái Bì [18]) đã được khắc họa điểm xuyết vào trong đó. Còn những bài văn của các quốc gia phương Tây phải thể hiện được đặc điểm là “Cám bã Chủ nghĩa tư bản”. Nhạc công Janko [19], ông già Willy Wonka [20], “chú Jules của tôi” [21] hoặc là chết một cách thảm khốc, hoặc là có kết cục rất ảm đạm. Các danh tác trên thế giới cũng đành phải lựa chọn, nhưng phải chọn cái ăn nhịp với giáo điều của Trung Cộng. Bởi vì Mao dùng quan điểm đấu tranh giai cấp mà đọc “Hồng Lâu Mộng”, do vậy giáo án trung học phải dùng “Sư Hồ lô xử án hồ lô” [22], nhằm thể hiện giai cấp thống trị phong kiến ích kỷ tàn bạo, coi mạng người như cỏ rác.

Sách giáo khoa ngữ văn của trung học đa phần là văn chương của Mao Trạch Đông và Lỗ Tấn. Mao nói “phản đối chủ nghĩa tự do”, Lỗ Tấn nói lịch sử 5.000 năm, đâu đâu cũng thấy viết hai chữ “ăn thịt người”, phải “đánh đập kẻ sa cơ”, “muốn chơi đẹp thì phải làm từ từ”, rất nhiều phần trong những bài văn này phải học thuộc lòng.

(2) Phương pháp giảng dạy của giáo viên

Dù ý nghĩa của những bài văn này đơn thuần rõ ràng bao nhiêu đi chăng nữa thì bất kỳ văn bản nào cũng đều có thể đọc hiểu theo nhiều cách khác nhau. Nhằm ngăn chặn khả năng này, ngành giáo dục của Trung Cộng yêu cầu giáo viên ngữ văn rằng sau khi giảng giải từng chữ, từng từ, từng câu, từng đoạn, từng chương cần phải tiếp tục “làm nổi bật nội dung chính”, chỉ ra “tư tưởng trung tâm” của bài văn, ép buộc học sinh lặp đi lặp lại những lời Văn hóa đảng đó. Ví dụ phía trên có nhắc tới “nhạc công Janko” là bài văn của học sinh lớp 5, tư tưởng trung tâm của nó là “tội ác của chế độ bóc lột trong xã hội cũ”, giáo viên phải dẫn dắt học sinh hiểu rằng “lý tưởng của người lao động không thể thực hiện được, cho dù có tài năng, cũng phải mai một”, cần phải “dấy lên lòng căm hận của học sinh đối với chế độ bóc lột, đồng cảm với tư tưởng, tình cảm của nhân dân lao động”.

(3) Phương hướng thi cử

Thi lên lớp là cây gậy chỉ huy của giáo dục các cấp. Xu hướng ra đề trong kỳ thi có tác dụng dẫn hướng to lớn đối với giáo viên và học sinh. Cũng có nghĩa là trọng điểm dạy học bị dẫn dắt bởi đề thi, mà đề thi lại trực tiếp bị khống chế bởi chính sách của Trung Cộng. Ví dụ như đề thi văn vào trường cao đẳng đại học, đề bài toàn quốc năm 1958 là “Màn kích động nhân tâm trong Đại nhảy vọt”, đề bài tại Bắc Kinh năm 1977 là “Một năm chiến đấu của tôi”, đề bài tại Thượng Hải là “Những ngày tháng nắm vững cương lĩnh trị quốc”. Trong đề thi văn những năm gần đây thì những đề bài mang Văn hóa đảng trần trụi như vậy đã giảm đi, thay vào đó là Văn hóa đảng khá kín đáo, ví như cái gọi là “phép biện chứng”, “một chia thành hai”. Bộ phim “Hoa hồng có gai” năm 1990 lại khiến nhân dân ôn lại những từ tự biện hộ kinh điển của Trung Cộng: “chủ lưu là tốt”, “thành tích là chủ yếu”, “thành tích là chín ngón tay, sai sót là một ngón tay”, “vết đen trên mặt trời”. Còn “gần mực thì đen” và “gần mực chưa chắc đã đen” năm 1991, nghĩa bóng của nó là cải cách mở cửa hoàn toàn không vi phạm bốn nguyên tắc, dự báo rằng năm 1992 Đặng Tiểu Bình tuần du phương Nam sẽ khởi động lại cuộc cải cách kinh tế què quặt.

Thi lên lớp có tác dụng dẫn hướng tuyệt đối đối với giáo dục các cấp. Trung Cộng nắm quyền ra đề thi, chính là chi phối sự phân phối thời gian học tập và vận dụng trí lực của học sinh. Trung Cộng lấy những thứ nó ép buộc nhồi nhét là trọng điểm trong các kỳ thi, học sinh đành phải bỏ thời gian gấp mười mấy lần, thậm chí mấy chục lần cho việc học các môn khác để ghi nhớ nội dung Văn hóa đảng đó. Kết quả là, văn hóa Đảng giống như một con dao khắc thật sâu vào tâm hồn của học sinh.

(4) Những xu thế gần đây

Chẳng bao lâu sau, bài học nhân sinh đầu tiên của học sinh là “Mao chủ tịch vạn tuế”, “Tôi yêu Thiên An Môn Bắc Kinh, mặt trời lên cao trên bầu trời Thiên An Môn”. Hiện nay sách giáo khoa cũng đã “tiến bộ” nhiều, tới cuối sách lớp một của học sinh tiểu học mới gượng gạo đưa ra “cây đại thụ Đặng Tiểu Bình”. Câu thơ nổi tiếng của Đỗ Phủ “Dao liên tiểu nhi nữ, Vị giải ức trường an” (Ở xa thương cho con gái bé bỏngChưa hiểu nỗi nhớ Trường An), không [được hiểu] là  trực tiếp viết về nỗi nhớ con, ngược lại là nói đứa con nhỏ còn chưa biết nhớ đến cha mình, một góc độ mới mẻ, ý vị sâu sắc. Rất nhiều bài văn trong sách giáo khoa ngữ văn hiện nay đều bịa đặt thông qua kỹ xảo này. Học sinh tiểu học không cần phải hét lên “Bốn điều vĩ đại” nhưng lại phải cùng “thân quyến” hồi tưởng lại ân tình sâu nặng, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây, tưởng nhớ Mao chủ tịch từng phút từng giây”. Trước kia nó tự tâng bốc bản thân thành “trung tâm cách mạng thế giới”, hiện nay nó lại kể một câu chuyện như sau: “Lưu học sinh lang bạt tại hải ngoại gặp cảnh khốn cùng, muốn dùng chiếc áo khoác đổi lấy một mẩu bánh mì, ông chủ tiệm (người phương Tây) không chịu. Nhưng nhìn thấy lá cờ đỏ năm sao trên cổ người học sinh, ‘mắt ông chủ tiệm sáng lên’, nhất định phải đổi bánh mì lấy cờ đỏ. Lưu học sinh vô cùng trượng nghĩa, phủi áo bỏ đi, vậy là ông chủ tiệm nhận được một bài học sâu sắc.” Những bài giảng chính trị tuyên truyền “một Trung Quốc”, “không bài trừ việc sử dụng vũ lực”, những bài giảng ngữ văn lại giảng từ việc Đài Loan không có tuyết, cuối cùng dùng lời của giáo viên để đưa ra chủ đề “Những người bạn nhỏ ở đó (Bắc Kinh) đang đợi các em tới chơi cùng các bạn ấy.”

Sách giáo khoa ngữ văn của học sinh tiểu học xuất bản gần đây đã nhồi nhét một cách hệ thống “khăn quàng đỏ”, “ngày 01 tháng 10 – sinh nhật của mẹ tổ quốc”, dùng chuyện xưa để giảng về chính sách đối với Đài Loan, chính sách dân tộc, chính sách ngoại giao, chính sách kinh tế v.v.. của Trung Cộng, thiếu niên nhi đồng tư tưởng giản đơn đang hấp thụ một lượng lớn nội dung Văn hóa đảng một cách vô thức.

Các sách giáo khoa ngữ văn hiện nay đã thêm vào rất nhiều tác phẩm có hơi thở của thời đại, nhưng chúng ta nhất định phải thấy được, các giờ học ngữ văn vẫn cứ đảm nhận một tác dụng trọng yếu trong việc nhồi nhét Văn hóa đảng. Đó là bởi vì, thứ nhất, văn chương của giới lãnh đạo của đảng vẫn chiếm một phần nhất định của chương trình. Thứ hai, do đặt cạnh rất nhiều các bài văn nổi danh, nên Văn hóa đảng cũng tự nhiên có được địa vị như những danh tác nổi tiếng, cũng chính là được “kinh điển hóa”. Khi học sinh dùng những bài có văn hóa đảng này để học tập văn phạm và tu từ, thì đã coi nội dung là thứ tự nhiên, đương nhiên, thậm chí tất nhiên, chẳng mảy may phòng bị mà tiếp thu. Thứ ba, định hướng giáo dục vì thi cử hiện nay đã hướng toàn bộ sự chú ý của học sinh vào một lượng lớn những tiểu tiết vô vị, khiến học sinh vừa mất đi hứng thú với nội dung các bài văn, vừa mất đi năng lực tìm tòi nghiên cứu.

Đương nhiên, môn ngữ văn cùng với giáo trình nhiều môn học khác cùng phối hợp mà phát huy tác dụng, việc “từ bỏ chính trị hóa” về một mức độ nào đó của môn ngữ văn, cũng đã chứng tỏ khả năng dung nạp mạnh mẽ và tính lừa dối cao độ trong Văn hóa đảng từ một phương diện khác. Cũng giống như “nhân quyền đi vào hiến pháp”, Giang Trạch Dân đề xuất “lấy đức trị quốc”, Hồ Cẩm Đào hô lớn “xã hội hài hòa”, không chừng một ngày nào đó, “kiên trì quảng bá Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo, những tinh hoa của dân tộc” cũng sẽ được viết vào cương lĩnh của đảng và hiến pháp, tiếp tục giải thích câu chữ “vĩ đại, quang minh, chính xác” và “thay đổi cùng thời gian” là như thế nào.

Những môn học khác dưới thể chế giáo dục của Trung Cộng như địa lý, âm nhạc, khoa học tự nhiên v.v.. cũng đều gánh vác sứ mệnh nhồi nhét Văn hóa đảng. Qua một vài ví dụ có thể thấy được toàn cảnh, tại đây sẽ không đàm luận chi tiết thêm nữa.

Điều cần phải nhấn mạnh và cần chỉ ra là, nguy cơ lớn nhất của giáo dục Văn hóa đảng không phải là nội dung cụ thể được nhồi nhét, mà là nó đã áp đặt lên học sinh một cái khung nhận thức để nhận thức thế giới, giải thích thế giới. Sau khi học sinh nhận thức được cốt lõi của cái khung nhận thức đó, đối với những tin tức không thể xử lý được trong cái khung đó, thì hoặc giữ thái độ bài xích cực đoan, thờ ơ, bàng quan với những hiện tượng mà cái khung đó không thể giải thích, hoặc tiến hành xử lý những thông tin này bằng phương thức tư duy lệch lạc mà Trung Cộng nhồi nhét, cuối cùng rút ra kết luận có lợi cho sự thống trị của Trung Cộng. Điều này giải thích tại sao người Trung Quốc ngày nay vừa rất có tư tưởng, giỏi biện luận, mặt khác lại cực đoan, hẹp hòi, cố chấp, bế quan tỏa cảng với những điều mình không thích, thỏa mãn “trạng thái vô tri có chọn lọc”.

Tự cổ Trung Quốc có câu “Vạn ban giai phẩm, duy hữu độc thư cao” (Mọi thứ đều thấp kém, chỉ đọc sách là cao quý), xã hội vô cùng coi trọng giáo dục phổ cập. Đối với con cái của đa số nông dân, ngoài việc nhập ngũ thì thi đại học là con đường duy nhất có thể thay đổi thân phận nông dân của mình. Nhưng Trung Cộng đã nắm giữ mọi nguồn tài nguyên của quốc gia, các em hoặc không được giáo dục, hoặc chỉ có thể được sự giáo dục bởi văn hóa Đảng. Mấy chục năm qua, Trung Cộng đã coi giáo dục, vốn là việc chung của toàn dân, thành cái phường buôn bán hàng lậu của riêng nhà mình, người Trung Quốc hết thế hệ này tới thế hệ khác đều bị ép phải nuốt quả đắng là giáo dục Văn hóa đảng.

Comments

Popular posts from this blog

Chương 3 : Các thủ đoạn nhồi nhét : Lợi dụng các văn nhân của tà đảng để ca ngợi công lao của ác đảng

Chương 3 : Các thủ đoạn nhồi nhét : Cưỡng chế người dân đọc sách của Marx, Engels, Lenin, Stalin, và Mao Trạch Đông

Chương 2: Cải tạo tư tưởng một cách hệ thống : Phê phán Nho – Thích – Đạo