Chương 4: Biểu hiện của người ta sau khi bị cải tạo tư tưởng : Không tin Thần khiến người ta làm các việc không tính đến hậu quả, việc xấu gì cũng dám làm

 

  1. Không tin Thần khiến người ta làm các việc không tính đến hậu quả, việc xấu gì cũng dám làm

Vô Thần luận là một trong những hạch tâm của Văn hoá đảng. Trung Cộng sở dĩ có thể cải tạo được tư tưởng người ta, chính là ở chỗ mà nó đã cắt đứt được Văn hoá truyền thống của dân tộc, dùng văn hóa ngoại lai là chủ nghĩa Mác-Lê để thay thế văn hoá nửa thần của Trung Quốc trong mấy nghìn năm, từ đó thuyết “Vô Thần” làm chủ Đại lục, kính Trời sợ Thần, thiện ác hữu báo đã biến thành mê tín phong kiến và vô tri ngu muội. Ngay cả từ lịch sử nhân loại mà nói, tín ngưỡng đối với Thần và tôn giáo đã duy trì đạo đức của nhân loại ở mức độ cao. Nếu không còn tin tưởng Thần, thì cũng không còn ước thúc về đạo đức, không có ước thúc về đạo đức, ước thúc về pháp luật cũng chỉ có thể là hữu danh vô thực. Từ đó, vì để đạt được mục đích mà có thể không từ thủ đoạn. Không tin vào việc có kiếp này kiếp sau, không tin vào làm việc xấu sẽ có báo ứng, từ đó, làm việc gì cũng đều không tính đến hậu quả, việc xấu gì cũng dám làm.

1) Coi thường sinh mệnh tuỳ ý giết người

Từ sau năm 1949, trong những cuộc vận động chính trị như “trấn phản”, “cải cách ruộng đất”, “tam phản”, “ngũ phản”, “chống cánh hữu”, “cách mạng văn hoá”, v.v.. hết lần này đến lần khác, đã có hàng chục triệu người chết bất thường. Nhưng trong mỗi cuộc vận động, kẻ khởi tác dụng lại không chỉ là bản thân Trung Cộng. Trung Cộng làm các vận động xưa nay là kích động quần chúng đấu với quần chúng. Rất nhiều người bị hại thường là bị Trung Cộng chụp lên cái mũ nào đó, sau đó những người hàng xóm, thân thích thậm chí người nhà sẽ ập vào, khiến người ấy bị áp bức cho chết, đem người còn sống rành rành ra đánh chết. Một mặt những kẻ đánh người kia bản thân quả đúng là bị Trung Cộng lừa gạt, nhưng bọn họ có thể làm được ra những việc ác như thế, lại có quan hệ mật thiết với sự tẩy não của Văn hoá đảng. Một xã hội tin tưởng vào Thiên lý, tin tưởng vào nhân luân nhân tính, không thể có chuyện thương thiên hại lý, mất hết nhân tính trên diện tích lớn như thế này.


Ảnh: Epoch Times

Nạn đói lớn sau “Đại nhảy vọt”, số người chết ước chừng 40 triệu người, là nạn đói lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Nạn đói này đã bị Trung Cộng bóp méo thành “ba năm thiên tai tự nhiên”, trên thực tế ba năm ấy thời tiết thuận lợi, những thiên tai tự nhiên như lũ lụt quy mô lớn, hạn hán, bão, sóng thần, động đất, sương giá, đóng băng, mưa đá, châu chấu cũng không hề phát sinh một lần, hoàn toàn là một trường “nhân hoạ” triệt để. Sự thực là, nếu như khi nạn đói xảy ra, có thể mở kho thóc, có thể tìm biện pháp giải quyết, thì số người chết trong nạn đói này đã không hẳn là cao như thế. Nhưng điều khiến cho người ta kinh hoàng hơn là, đối diện với người dân quê bị đói đến mức chỉ còn lay lắt hơi thở, Trung Cộng lại ra lệnh cho quân nhân cưỡng chế phong toả đường xá, mắt nhìn thấy bọn họ chết một cách rõ ràng như vậy mà cũng không cho phép họ bò ra để tìm lối thoát.

“Đánh – đập – cướp” trong Cách mạng Văn hoá, học sinh không ngờ đã dùng thắt lưng để quật chết thầy giáo, con cái dùng gạch đập chết phụ thân. Còn có người sau khi đánh chết đối phương rồi, còn lấy nội tạng ra để ăn.

Trung Quốc cổ đại giảng “nhân mệnh quan Thiên (mệnh người có liên quan đến Trời)”, “cứu một mạng người, hơn xây tháp Phật bảy tầng”. Đối tượng bị chính quyền thanh trừng, vốn dĩ đã đủ đáng thương rồi. Nhưng hiện tại rất nhiều người lại không những thấy chết mà không cứu, còn thêm dầu vào lửa, thậm chí coi giết người làm vui. Chỉ cần Trung Cộng bảo làm gì thì liền làm nấy, cho rằng là cần thiết cho đảng tính, là cần thiết cho chính sách của đảng, hậu quả nào cũng đều có thể không màng. Hậu quả việc Trung Cộng cải tạo tư tưởng đáng sợ cỡ nào, người ta đã có thể thấy được một phần.

Đến tận hôm nay, cái kiểu tư duy Văn hoá đảng coi thường mạng người vẫn không hề theo thời gian mà trôi vào dĩ vãng. Sự bại hoại và bạo chính của Trung Cộng đã sản sinh ra số lượng lớn những đoàn thể bị áp bức trong xã hội. Người giàu người làm quan chức có thể lợi dụng đặc quyền để sống một cuộc sống vung tiền như rác, còn những công nhân bị sa thải lại bởi vì không có tiền chữa bệnh mà tự thiêu chết ở nhà, người mẹ của gia đình bần cùng bởi vì không có cách để trả học phí cho con mà treo cổ tự sát… Nhưng đối diện với cuộc sống khốn khổ của dân chúng ở tầng lớp dưới, rất nhiều người lại không thèm đếm xỉa, không hề quan tâm. Đối với những người dân đáng thương đi phản ánh lên cơ quan cấp trên và yêu cầu giải quyết vấn đề, thì những người được gọi là nhân viên chấp pháp kia lại có thể đánh họ tàn nhẫn, khiến người ta trọng thương tàn phế, chẳng chút mảy may để tâm đến sống chết của người khác. Người gọi là Hà viện sĩ tức Hà Tộ Hưu, có thể đối diện với vô số tai nạn hầm mỏ, mà nói ra câu nói như của lang sói rằng “Ai bảo anh sinh ra ở Trung Quốc?” Thậm chí tướng Chu Thành Hổ của Trung Cộng, còn buông ra câu: có thể hy sinh miền đất từ Tây An trở về phía Đông, không tiếc một nửa nhân khẩu của Trung Quốc để đánh một trận chiến tranh hạt nhân, giống hệt như đúc với giọng điệu của Mao [Trạch Đông] rằng “Trung Quốc mà chết 300 triệu người, thì vẫn còn 300 triệu người”. Chỉ bởi vì không có “giấy tạm trú”, sinh viên đại học là Tôn Chí Cương đã bị bắt nhốt và bị đánh đến chết. Còn trong quá trình bức hại Pháp Luân Công, quá nhiều các học viên Pháp Luân Công ở Đại lục bị tra tấn tàn khốc thậm chí tra tấn đến chết, đến năm 2006 thậm chí còn bại lộ nạn mổ cướp nội tạng sống của các học viên Pháp Luân Công từ năm 2001, quan chức và bác sĩ của Trung Cộng thu lợi khổng lồ từ đó. Mất hết nhân tính như vậy, khiến người ta phải kinh hoàng.


Ảnh: Epoch Times

Coi thường sinh mệnh không chỉ biểu hiện ở trong các cuộc vận động chính trị, cũng không chỉ thể hiện ở thái độ của kẻ quyền thế đối với người dân, mà hiện tại trong xã hội giữa người với nhau đều đầy ắp hiện tượng “hiếu dũng đấu ngận” (tham đánh tham giết), tàn sát tuỳ ý. Hiện tại những người trẻ tuổi động một cái nào là chém, là giết, càng bạo lực thì càng tôn sùng. Những vụ án hung sát với thủ đoạn tàn nhẫn trong trường học xảy ra liên miên. Trong xã hội những vụ giết người cướp của, thuê giết người có thể thấy khắp nơi. Quan chức, kẻ nhiều tiền mướn côn đồ giết người, có lúc ngay cả vợ con bạn bè của mình cũng không ngoại lệ.

Khi đạo đức của con người sa đoạ đến cùng hung cực ác như thế này, thì cái xã hội này chẳng phải đã đến bước cực kỳ nguy hiểm rồi sao.

2) Đấu Trời đấu Đất phá hoại tự nhiên

Mấy chục năm vừa rồi, Văn hoá đảng khiến nhân dân Trung Quốc bị nhào nặn thành một tộc người “vô Pháp vô Thiên”, “Đấu Trời đấu Đất”, từ “đại luyện sắt thép”, “vây hồ tạo ruộng”, “bắt chim sẻ một cách điên cuồng”, “chặt phá bừa bãi” lúc đương sơ cho đến việc trả giá bằng môi trường để đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao như ngày nay, đều là chỉ quan tâm đến trước mắt, không màng đến phúc lợi của con cháu thế hệ sau, gây hủy hoại to lớn đối với tự nhiên. Tổng Cục Bảo vệ Môi trường Quốc gia Trung Quốc tiết lộ, để sản xuất ra sản phẩm có giá trị 10.000 Đô la Mỹ, nguyên liệu mà Trung Quốc tiêu hao lớn gấp bảy lần Nhật Bản, gấp sáu lần nước Mỹ, thậm chí so với Ấn Độ còn gấp hai lần. Nếu như vấn đề môi trường không thể đạt được cải thiện, kỳ tích kinh tế của Trung Quốc sẽ rất nhanh trở thành quá khứ. Ngân hàng Thế giới nói, trên thế giới có 10 thành phố ô nhiễm môi trường nghiêm trọng nhất, thì Trung Quốc đã chiếm tới 6. Diện tích xói mòn đất của toàn quốc chiếm tới 38% đất, 471 huyện của 18 tỉnh (địa khu), đất canh tác và vườn của gần 400 triệu nhân khẩu nằm trong sự uy hiếp của sa mạc hoá, các chuyên gia ước tính, tương lai Trung Quốc sẽ có 150 triệu nhân khẩu trở thành nạn nhân sinh thái. Ngày 26 tháng 08 năm 2006, Ủy ban Thường vụ Đại hội Đại biểu Nhân dân Trung Quốc trong một báo cáo kiểm tra môi trường, dùng những cụm từ như “nước ô nhiễm cả”, “mưa toàn axit”, “mức độ ô nhiễm nặng nề đến độ tim đập chân run”, “không thể trì hoãn nữa rồi” để hình dung tính nghiêm trọng của ô nhiễm. Kênh 2 của Đài truyền hình Trung ương từng đưa tin, con số GDP mà Trung Quốc mỗi năm sản xuất ra, có 18% GDP là “bội chi” vào môi trường sinh thái và tài nguyên mà ra. Có một bức ảnh chụp trái đất từ vệ tinh, rất nhiều quốc gia là màu xanh đã phục hồi, mà Trung Quốc thì một dải đất vàng. Rất nhiều cư dân mạng đối diện với việc mẹ tổ quốc bị tàn phá như thế này, khi thấy Trung Cộng còn đang hô hào “quật khởi”, bất giác mà “tuyệt vọng hoàn toàn”.


Ảnh: Epoch Times

“Một con sông lớn sóng vỗ, gió thổi hương lúa hai bờ…”, đây từng là ca khúc bài tủ mà Trung Cộng tuyên truyền chủ nghĩa yêu nước, có khảo chứng chỉ ra, con sông lớn đẹp đẽ này chính là nói đến con sông lớn thứ ba của Trung Quốc – sông Hoài, gánh vác một phần sáu dân số toàn quốc. Có một câu nói là “đi hết mọi nơi, cũng không đâu bằng bờ sông Hoài”. Nhưng mà, chỉ vỏn vẹn trong mấy chục năm, sự ô nhiễm của sông Hoài đã kinh tâm động phách, khiến cho câu dân ca này chỉ còn là lịch sử. Nước thải của các xí nghiệp công nghiệp, nguồn nước của nông thôn ô nhiễm và nước thải sinh hoạt của thành phố khiến 60% lưu vực sông Hoài ước chừng kém hơn chất lượng nước loại 5, ô nhiễm do trên mặt đất lan xuống dưới lòng đất, trực tiếp ảnh hưởng cuộc sống của 130 triệu cư dân. Trung Cộng cũng hô hào xử lý nước sông Hoài, nhưng, nếu như nhân tâm không cải biến, thì không có tác dụng. Từ ngày 20 đến 27 tháng 07 năm 2004, sông Hoài bộc phát những khối ô nhiễm lớn nhất trong lịch sử, có những cái như cây nấm màu đen khổng lồ, từ thượng du cuốn xuống, quét qua nghìn dặm của sông Hoài, đám nước ô nhiễm màu đen bao phủ mặt sông kéo dài tới 133 km, tổng lượng vượt quá 500 triệu tấn, cuồn cuộn “sát khí” đổ về hồ Hồng Trạch, thuận thì sống, nghịch thì chết, hắc ám tràn đầy mặt sông, xác tôm cua cá trôi nổi hàng nghìn dặm. “Mười năm xử lý nước ô nhiễm đã trở về ‘điểm xuất phát’, 60 tỷ [nhân dân tệ] chi ra đã đổ sông đổ bể.”

Văn hoá đảng mang đến cho người Trung Quốc tâm thái “không tính đến hậu quả”, biểu hiện ở sự nhiệt tình làm các cuộc vận động lớn, dự án lớn, tốn tiền nhọc dân, không xét đến quy luật tự nhiên. Công trình lớn đến đâu, thì cũng luôn là hãy lên ngựa đã rồi hãy hay, không tính đến hậu quả gì, mang đầy tâm lý biến thái đấu trời đấu đất, thích chuyện lớn hám công to, tới đâu hay tới đó, xuất hiện sự cố gì thì tính là “học phí”, coi tương lai của quốc gia dân tộc như trò đùa con trẻ.

Ở trong những dự án trọng đại như “công trình Tam Hiệp” [5], “điều nước từ Nam lên Bắc”, người ra quyết sách còn dựa vào chính trị làm căn cứ ra quyết sách. Từ sau sự kiện “Lục tứ”, người dân Trung Quốc chán nản, công trình Tam Hiệp được chọn làm công trình để làm phấn chấn lòng người. Liên quan đến việc nên sửa chữa công trình Tam Hiệp hay không, điều người ta nghe được là tin tức một chiều, ngay cả đề cập tới tin tức trái chiều, thì cũng là sớm có đối sách “ứng phó”. Khi những chuyên gia phía phản đối phản bác và thảo luận chi tiết hơn thì người dân không được biết vì đó là cấm địa. 

Người có chút kiến thức cũng đều biết, nước muốn lưu động thì phải có độ dốc, giữa đầu và cuối khu vực chứa nước cũng phải có chênh lệch, khu bị ngập sẽ ắt phải là một tuyến dốc. Nhưng mà “tổ di dân” của công trình Tam Hiệp vì để phục vụ việc giảm chi phí di dân của đương cục, mà đề xuất ra tuyến di dân [do] ngập nước cho Tam Hiệp lại là bằng phẳng, tức là nếu như mực nước của đập chứa nước cao tới mức dự định là 175m, thì phía đầu kia tuyến ngập nước ở Trùng Khánh cũng là 175m. Nhưng căn cứ theo độ dốc thuỷ lực 0.7/10000 mà tổ chuyên gia bùn cát của công trình Tam Hiệp tính toán và công bố, thì độ cao mực nước của Trùng Khánh cách đó hơn 600 km sẽ không phải như mức 175m đang nói đến, mà là 217m so với mực nước biển, đến lúc ấy chắc phải “chuẩn bị hậu sự” cho Trùng Khánh thôi. Nếu như muốn giữ Trùng Khánh, thì mực nước không thể trữ đến mức 175m, vậy hiệu quả phát điện và phòng lũ như lúc ban đầu cũng sẽ giảm đi đáng kể. Nhiều quan chức tinh minh từ Trung ương đến địa phương như vậy, còn có nhiều nhà khoa học như vậy, đều biết rằng nước sẽ từ chỗ cao chảy xuống chỗ thấp, hậu quả nghiêm trọng như thế này mà không coi ra gì sao? 

Còn nữa, giữa mục tiêu và biện pháp thực thi trong công trình Tam Hiệp có rất nhiều mâu thuẫn. Mâu thuẫn giữa phòng lũ và phát điện, mâu thuẫn giữa phòng lũ và vận tải, mâu thuẫn giữa phòng lũ và bài [nước] đục tích [nước] trong, mâu thuẫn giữa phát điện, phòng lũ, vận tải và di dân v.v.. Đập lớn phòng lũ thì phải duy trì mực nước thấp chuẩn bị tích nước, mực nước giảm xuống thấp lại sẽ phải dẫn đến năng lực phát điện và vận tải xuống thấp.

Ngày 17 tháng 05 năm 2000, giáo sư Trương Quang Đẩu – người tư vấn thi công công trình sau khi phát hiện ra sai lầm rằng khả năng phòng lũ của công trình Tam Hiệp không thể đạt được tiêu chuẩn thiết kế, đã kiến nghị với Chủ nhiệm Văn phòng Ủy ban Xây dựng phương án giải quyết vấn đề này: lập tức hạ thấp mực nước khống chế lũ xuống 10m. Nhưng mực nước thấp tất nhiên ảnh hưởng đến vận tải, đồng thời cũng tất yếu ảnh hưởng tới phát điện, vì vậy ông Trương Quang Đẩu chủ trương xây dựng nhà máy nhiệt điện dùng dầu, khí đốt hoặc than để tiến hành điều chỉnh công suất tối đa, Trương nhiều lần cảnh báo: “Nhưng việc này công khai cho xã hội là tuyệt đối không thể.” (‘Thăm dò Tam Hiệp’ – Kỳ thứ 27). Còn nữa, xử lý việc bùn cát ứ tích như thế nào cũng là một trong những nhân tố trọng yếu quyết định thành bại của vùng trữ nước, mà vùng Tam Hiệp dài 200 km là cảng sa thạch tránh gió tốt nhất, khu dự trữ nước Tam Hiệp định chọn dùng phương thức vận hành theo kiểu “khơi trong gạn đục”. Có học giả ở nước ngoài dự đoán rằng “gạn đục” chỉ có hiệu quả ở cự ly rất ngắn trước đập lớn, mà chuyên gia thuỷ lợi nổi tiếng ở đại học Thanh Hoa – giáo sư Hoàng Vạn Lý đã nói chắc như đinh đóng cột rằng một cục đá cũng không thể trôi theo dòng nước chảy ra được! Năm 1957, giáo sư Hoàng bởi vì phản đối việc xây dựng đập lớn Tam Môn Hiệp trên sông Hoàng Hà, đã bị Mao Trạch Đông đích thân “sờ gáy”, bị coi là cánh hữu. Sau nhiều năm, sự thất bại của đập Tam Môn Hiệp đã chứng minh chủ trương của ông là chính xác. Liên quan đến công trình Tam Hiệp, giáo sư Hoàng đã từng viết ba lá thư, trần thuật lý do “công trình Tam Hiệp vĩnh viễn không thể xây”. Ông chỉ muốn xin người lãnh đạo Trung Cộng cho ông thời gian 30 phút, để nói rõ cho họ vấn đề của công trình Tam Hiệp, thuyết phục họ cải biến quyết sách này. Tuy nhiên, ngay cả đến thời gian 30 phút mà ông cũng không có được.

“Điều nước từ Nam lên Bắc” là một công trình cấp thế giới tiếp sau “công trình Tam Hiệp”, mục tiêu chủ yếu là sẽ lấy nước Trường Giang phân thành các tuyến Đông, Trung, Tây mà điều sang các địa khu thiếu nước nghiêm trọng ở Hoa Bắc và Tây Bắc. Công trình tuyến Đông, tuyến Trung đã khởi công từ cuối năm 2002; công trình tuyến Tây theo kế hoạch đến năm 2010 khởi công. Ban đầu, “công trình Tam Hiệp” vẫn còn có Đại hội Đại biểu toàn quốc bỏ phiếu nặc danh một cách tượng trưng, mà hiện tại người ta ngay cả cái việc thủ tục hình thức kia cũng là việc phải né tránh, những người thiết kế công trình tuyến Tây của “Điều nước từ Nam lên Bắc” còn nói rằng, Trung ương tuyên bố khởi công tuyến Đông, tuyến Trung, thì ngụ ý là tuyến Tây cũng khởi công rồi. Từ đầu tháng 07 năm 2001 thẩm tra về “Bản thảo công trình tuyến Tây” của Uỷ ban chuyên gia Bộ thuỷ lợi đã được thông qua, đến tháng 03 năm 2005 mới cho các nhà khoa học tự nhiên, chuyên gia kỹ thuật công trình, nhà kinh tế, nhà khoa học nhân văn sống và công tác dài hạn tại khu điều nước, lần đầu thấy được “bộ mặt thật của Lư Sơn” kia, khiến cho những chuyên gia ở tuyến đầu này vô cùng lo lắng. Công trình tuyến Tây cần lấy nước ở đầu nguồn Trường Giang dẫn đến Hoàng Hà, mà Hoàng Hà lại cao hơn Trường Giang 200m, so với công trình Tam Hiệp không biết là còn khó hơn gấp bao nhiêu lần, rủi ro cũng không biết là nhiều hơn gấp bao nhiêu lần. Có chuyên gia cảm thán “công trình tuyến Tây khiến người ta lo lắng, chẳng biết là cứu Hoàng Hà hay là giết Trường Giang, thậm chí cứu không nổi Hoàng Hà mà còn giết chết Trường Giang?” Kêu gọi Trung Cộng “cáo biệt huyễn tưởng cải tạo, chinh phục tự nhiên”. Nhưng mà, lời của bọn họ khi đến chỗ Trung Cộng vốn lấy quyết sách chính trị làm trung tâm kia, liệu có thể truyền được bao xa đây? Tổng công trình sư thiết kế công trình tuyến Tây vốn cực lực ủng hộ công trình được thi công ngay lập tức, trả lời với chất vấn của ngoại giới rằng “thuận theo việc dự án được thực thi, hết thảy đều sẽ dần dần sáng tỏ”. Những người từng bị “đấu Trời đấu Đất” của Trung Cộng tẩy não, khi động thổ trên sông của mẹ dân tộc Trung Hoa, thái độ cố nhiên cũng là “dò đá mà qua sông”.

Ảnh: Epoch Times

Lão Tử giảng: “Nhân pháp Địa, Địa pháp Thiên, Thiên pháp Đạo, Đạo pháp Tự nhiên” (người thuận theo Đất, Đất thuận theo Trời, Trời thuận theo Đạo, Đạo thuận theo Tự nhiên), từ trước đến giờ đều không có chuyện bảo con người đi đấu với Đất, phá hoại tự nhiên. Trong quan niệm truyền thống, con người và tự nhiên không phải là đối kháng lẫn nhau, “Thiên Nhân hợp nhất” nghĩa là cần tồn tại hài hòa cùng Tự nhiên. Khái niệm phát triển bền vững của thời hiện đại thực ra cũng không phải là cái gì mới mẻ, từ trước Công nguyên, đã có lý luận bảo vệ tự nhiên và hợp lý sử dụng tài nguyên thiên nhiên, nó khiến cho Trung Quốc từng có nền nông nghiệp truyền thống phát triển, là nền tảng cho nền văn hóa truyền thống xán lạn. Vì sao hiện tại lại xuất hiện tình huống là môi trường sinh thái và nhân văn bị phá hoại nghiêm trọng? Chính là vì phương thức làm việc không tính gì đến hậu quả này, đi ngược lại quy luật tự nhiên khiến cho núi xanh không còn, nước xanh ngừng chảy. Đặc biệt là hiện giờ những người dưới sự xui khiến của lợi ích kim tiền, mất đi tâm lý kính úy đối với tự nhiên, thì lại càng to gan làm bừa, cái gì cũng dám làm. Khi tự nhiên phản đòn, thì ai đến cứu với dân tộc của Trung Hoa đây?

3) Thói đời xuống dốc không nói chuyện đạo đức

Đạo đức nghề nghiệp của nhân viên công vụ cho đến các ngành nghề khác cũng đi xuống hàng ngày. Khám bác sĩ phải đưa phong bì, con cái nhập học phải giao phong bì, đi kiện cáo phải đưa phong bì, ký giả viết bài cũng nhận phong bì… Tiền bạc đã làm ô nhiễm hết thảy đạo đức nghề nghiệp vốn có: mô thức vận hành của xã hội chính thường đã bị phá hoại; đạo đức nghề nghiệp của các ngành nghề cũ trở nên bại hoại; đạo đức nghề nghiệp của những ngành nghề mới căn bản không có môi trường phát triển lành mạnh, vừa ra đời đã bị ô uế bao vây rồi.

Hãy nói về mức độ làm hàng giả, từ thuốc lá giả, rượu giả, dăm-bông giả, cho đến gạo độc, dầu ăn độc, sữa bột độc, cái gì cũng có. Năm 2003, ở Phụ Dương tỉnh An Huy đã phát sinh sự kiện “sữa bột độc” hại chết trẻ sơ sinh. Những trẻ sơ sinh dùng loại sữa bột này trong thời gian dài, đầu to thân nhỏ, thân thể suy nhược, phản ứng chậm chạp, lại kèm theo lở loét da với diện tích lớn, nội tạng trở nên sưng phù. Chỉ riêng ở thành phố Phụ Dương, trẻ sơ sinh mắc hội chứng suy dinh dưỡng đã có 171 em, tử vong do biến chứng có 13 em. Rất nhiều gia đình nông dân [có con em] mắc phải “bệnh đầu to”, vì để chữa bệnh cho con cái, dường như đã tiêu hết toàn bộ tiền tích luỹ, có gia đình thậm chí bán cả gia sản. Không ít gia đình do không có năng lực kinh tế, buộc phải từ bỏ điều trị, giương mắt nhìn con mình chết. Năm 2006, Sở lương thực thành phố Bắc Kinh đưa những 2.300 tấn gạo cũ độc hại lưu hành trên thị trường, ở trong bao hàm lượng lớn chất gây ung thư, bao gồm aflatoxin – chất hoá học gây ung thư mạnh nhất mà hiện nay phát hiện. Vậy nhưng thương gia vì lợi ích mà bất kể sống chết của người dân, gạo độc công nhiên tiến nhập vào thị trường lan ra toàn quốc, Hồ Nam, Hồ Bắc, Thượng Hải, Bắc Kinh, Quảng Đông, Liêu Ninh, Tứ Xuyên, Hồ Nam đều xuất hiện nhiều tấn gạo độc. Thậm chí còn có kẻ tệ hơn, lấy gạo độc hại trộn với gạo tốt, khiến người dân không cách nào phân biệt được.


Ảnh: Epoch Times

Quá khứ có câu kẻ cướp còn có đạo, trộn giả lừa tiền, cũng chỉ là lừa lấy tiền, thiếu đức thế nào đi nữa cũng không thể hạ độc. Mà người ta hiện nay, trừ thiểu số những người trong tâm vẫn còn tôn trọng truyền thống ước thúc đạo đức ra, đa số người là cảm thấy đạo đức, lương tâm chẳng đáng giá bao nhiêu tiền? Vô Thần luận, duy vật luận của Trung Cộng, không nói chuyện thiên lý, không nói chuyện đạo đức, nó giáo dục ra chính là những người chỉ vì tiền, vì lợi ích cá nhân, chuyện xấu gì cũng đều làm ra được.

Ngày 16 tháng 04 năm 2001, Chu Dung Cơ khi thị sát Học viện Kế toán Quốc gia Thượng Hải, đã viết một lời giáo huấn cho trường này là: “Không làm sổ sách giả”. Tình cờ sau đó, trong báo cáo “Báo đô thị Tam Tương” ngày 24 tháng 03 năm 2003, có một số sở giáo dục nơi đó xuất bản “Tám điều nghiêm cấm” về “ba cái loạn” trong quản lý giáo dục, trong đó “nghiêm cấm quấy rối tình dục nữ sinh” là một trong số điều được xếp vào loại thực sự đáng chú ý. Không biết cách giáo huấn và quy định như thế này, là khiến nhân dân yên tâm hay là càng lo lắng hơn.

Khi một xã hội đã xác lập quy tắc của trò chơi, chế độ dân chủ xã hội, thể hệ pháp luật, giám sát của truyền thông và tự do ngôn luận cùng tín ngưỡng tôn giáo đã được kiến lập khá hoàn thiện, đạo đức của dân chúng duy trì ở trình độ nhất định, tâm thái quốc dân khá bình ổn, thì nếu có những thứ loạn bát nháo nữa, nó cũng sẽ ở trong quy tắc; đạo đức và pháp luật về mặt nguyên tắc là có sự ước thúc. Mà [đáng nói là] tại Trung Quốc khi quy tắc chưa được xác lập, thì đã học những thứ loạn bát nháo kia rồi, hơn nữa có khi còn quá hơn, không có ước thúc giới hạn (đến từ) đạo đức, chế độ, tôn giáo, thì có thể tưởng tượng ra nó sẽ mang lại những hậu quả gì. 

4) Tình dục tràn lan gây ra khủng hoảng xã hội

Trung Quốc ngày nay, là một thời đại “chê cười kẻ nghèo hèn, không chê cười phường ca kỹ”. Cải cách chính trị của Trung Cộng là cấm địa, ngược lại, “sinh hoạt tình dục” lại trở thành cái được giải phóng triệt để nhất. Quan hệ ngoài hôn nhân, bao bà hai, tình một đêm, trò chơi đổi vợ của giai tầng “cổ áo trắng” [6], sống chung trước hôn nhân, kết hôn trên mạng, kết hôn chớp nhoáng, kết hôn kín, cửa hàng bán đồ người lớn, bán dâm, massage kích thích tình dục, biểu diễn tình dục, múa thoát y, biểu diễn có tính khêu gợi trên tiết mục truyền hình điện ảnh, mỹ nữ gợi cảm lẳng lơ nổi bật trên truyền thông báo chí v.v.., tại xã hội Trung Quốc nói đến chính trị là dân chúng biến sắc mặt (vì sợ hãi), nhưng mặt khác lại đang thực hiện một cuộc “cách mạng tình dục” chưa từng có. Dữ liệu của bộ công an cho thấy, năm 1984 số lượng gái mại dâm bắt giữ là 6.000, đến năm 1999 lên đến con số 450.000, số người bị điều tra tăng vọt lên, nhưng tỉ lệ bắt giữ là 1% hay là 10%, không có ai biết, nhưng tuyệt đối không vượt quá 10%. Trong “làn sóng vàng [tình dục]” bao quát toàn dân này, không chỉ là một thế hệ người trẻ có ý thức đi trước, mà ngay cả người trung lão niên cũng không chịu kém miếng, dường như là muốn lấy lại quãng thời gian bị “lãng phí” trước kia. Câu danh ngôn trên bộ phim “Điện thoại di động” và của Nguyên Phó tỉnh trưởng tỉnh An Huy – Vương Hoài Trung “điều tra gái mại dâm là phá hoại môi trường đầu tư”, chính là khúc xạ của kiểu hiện tượng xã hội này. Nhớ trước kia “toàn quốc trên dưới một mảnh đỏ”, mà thấy thời nay “toàn quốc trên dưới một mảnh vàng [chỉ tình dục]”.

Bao bà hai, nuôi bồ nhí, hối lộ tình dục, đã trở thành một loại “mốt thời thượng” mà quan chức truy cầu, không chỉ không thấy xấu hổ, ngược lại còn thấy vinh dự. Dữ liệu điều tra cho thấy, trong các tham quan ô lại bị điều tra, có 95% có bồ nhí. Vào năm 1999 ở Quảng Châu, Thâm Quyến, Chu Hải công bố trong số 102 vụ án quan tham ô hối lộ, có 100% có bao nuôi “bà hai”. Nhưng đây vẫn chỉ là phần nổi của tảng băng. Một cá nhân Trương Nhị Giang – Bí thư thành uỷ Thiên Môn đã có tới 107 bồ nhí.

Từ chính phủ đến dân chúng, từ nhân vật quyền thế đến người dân phổ thông, đã không còn ước thúc về đạo đức, chỉ cần có điều kiện, thì đều nghĩ làm sao chiếm được “một món lợi” tình dục. Thượng cấp đối với hạ cấp, ông chủ đối với nhân viên, giáo viên đối với học sinh, đạo diễn đối với diễn viên, kẻ mạnh đối với kẻ yếu, xâm phạm về tình dục có thể thấy ở khắp nơi, Thiên lý, nhân luân đều có thể không màng.

Ngay trường học vốn là nơi dạy dỗ con người cũng xuất hiện lặp đi lặp lại thầy giáo cầm thú. Có học sinh bị cưỡng gian có thai, có học sinh bị cưỡng gian lại bị trở thành bà hai, có thầy giáo cưỡng gian không thành liền giết hại học sinh, có kẻ thậm chí còn hạ thủ với bé gái còn hết sức nhỏ tuổi. Truyền thông trong nước năm 2003 báo cáo, ở huyện Đại Túc tỉnh Trùng Khánh có một thầy giáo tiểu học, từ năm 2002 đến năm 2003, trước sau đã thực hiện cưỡng gian 10 em nữ học sinh vị thành niên do chính mình dạy. Ở huyện Long Tây tỉnh Cam Túc có một thầy giáo dạy thể dục lấy cớ giúp học sinh đi cửa sau vào trong trường, đã cưỡng gian 12 em nữ sinh lớp 9, trong đó có hai em học sinh có thai sau khi bị cưỡng gian. Ở xã Hà Khẩu huyện Cẩm Bình tỉnh Quý Châu một thầy giáo 51 tuổi của trường tiểu học Trung Ngưỡng trong thời gian 1 năm rưỡi đã cưỡng gian 12 em nữ học sinh 42 lần, quấy rối tình dục 16 em nữ học sinh 35 lần, chỉ có 3 em là thoát khỏi nanh vuốt của ông ta. Tháng 06 năm 2004, một thầy giáo ở trường tiểu học ở huyện Lâm Hạ trong thời gian một năm rưỡi trước sau đã cưỡng gian và quấy rối tình dục nhiều lần 9 em học sinh cùng học lớp 3, trong đó em bị số lần nhiều nhất là những 10 lần, mà những đứa trẻ này em lớn nhất chưa đầy 15 tuổi, những em khác đều là từ 9 đến 10 tuổi. Ở một trường tiểu học ở thị trấn Nam Hưng thành phố Lôi Châu thuộc thành phố Trạm Giang, hiệu trưởng Lâm Đăng Bình trong vòng 3 tháng đã gây tội ác 7 lần, tổng cộng cưỡng gian 11 em, đều là bé gái vị thành niên ở trong trường, em bị hại nhỏ nhất mới chỉ 10 tuổi… Làm ác đến mức điên cuồng táng tận lương tâm, kinh hoàng như vậy, ngày nay đã không còn là chuyện hiếm thấy.

Về vấn đề tình dục, người Trung Quốc từ thời cổ đều cẩn trọng nghiêm túc, coi việc giữ gìn tiết hạnh rất nặng. Chỉ có sau khi kết hôn thì mới có thể ở cùng nhau. Lúc kết hôn phải bái cha mẹ, bái Thiên địa, có Thiên địa Thần minh chứng giám cho hôn nhân của mình. Ngược lại, nếu như có người bị buộc tội tư thông, dâm loạn, thì ấy là một tội lớn. Cưỡng gian lại càng như giết người phóng hoả, tội không thể tha thứ. “Vạn ác dâm vi thủ”, nhưng người Trung Quốc ngày nay, dường như đã hoàn toàn quên mất lời dạy của người xưa. Cục diện như thế này, không thể không nói là có sự liên quan mật thiết với việc Trung Cộng phá hoại giá trị đạo đức truyền thống, tuyên truyền thuyết vô Thần, thuyết duy vật. Trong Văn hoá đảng của Trung Cộng, quyền lực chính là thuyết minh lớn nhất cho đạo đức. Chỉ cần có quyền, chỉ cần có điều kiện, thì có thể mặc sức làm bừa. Từ cái “cộng sản cộng thê” trong những năm đầu của Đảng Cộng sản, cho đến sự dâm loạn của Mao Trạch Đông, rồi đến sự hủ bại truỵ lạc của quan chức Trung Cộng hiện tại, từ quan lại đến thường dân, hết thảy giá trị truyền thống đều đã bị đảo lộn, hết thảy quan niệm nhân luân gia đình đã bị vứt bỏ rồi. Nhưng lịch sử hết lần này lần khác mách bảo với chúng ta rằng, loạn tình dục thông thường là điềm báo cho sự huỷ diệt của dân tộc. Phát triển tiếp nữa, dân tộc Trung Hoa rốt cuộc kỳ vọng vào một tương lai như thế nào đây?

5) Công nghiệp hoá tình dục, cờ bạc, ma tuý – Quan chức trở thành ô dù bảo hộ

Nghề mại dâm ở Trung Quốc vẫn luôn phi pháp, ngành công nghiệp tình dục ắt phải kết hợp với quân đội cảnh sát mới có thể sinh tồn và phát triển. Có một số công nghiệp tình dục căn bản chính là hợp tác với quân đội cảnh sát mà làm, có người cũng không che giấu điểm này, bởi vì đây là cái bảo đảm an toàn, ví như nơi chiêu đãi của quân đội hoặc công an lại trở thành nơi ra vào nườm nượp. Lợi ích kinh tế liên quan đến ngành phục vụ tình dục càng ngày càng khổng lồ, kể đến như nhân viên chuyên nghiệp ước chừng có 10 triệu người, chi phí liên quan đến mỗi năm ước chừng 1.000 tỷ nhân dân tệ. Nhờ hành động của cảnh sát năm 2000, nhà kinh tế học Trung Quốc Dương Phàm đã ước tính, chi phí của các công nhân nữ thất nghiệp giảm xuống thấp, GDP của Trung Quốc vì vậy mà giảm thiểu 1%. Nghiên cứu viên bán thời gian Vương Tăng Tiên của Sở nghiên cứu ngành Xổ số công ích Trung Quốc thuộc Đại học Bắc Kinh, trong phần “đánh giá sơ bộ” tại hội nghiên cứu đã nói, mỗi năm sẽ có gần 600 tỷ Nhân dân tệ tiền đánh bạc đổ ra nước ngoài và khu vực Hồng Kông – Macao, thị trường ma tuý lên đến 300 tỷ Nhân dân tệ, người hút ma tuý vượt quá 10 triệu người. Đội trưởng chi đội chống ma tuý Thẩm Dương là Trần Hâm, Nguyên Cục trưởng Phân cục Thẩm Hà là Khúc Nguyệt Phúc và Cục trưởng đương nhiệm Trương Bảo Hoa cùng 100 nhân viên cảnh sát khác làm ô dù bảo hộ cho những kẻ buôn ma tuý. Buôn ma tuý và cảnh sát câu kết, thành một đường dây buôn ma túy. Ba thị trường lớn tình dục, đánh bạc, ma tuý gần như quan hệ tương hỗ mà cùng nhau phát triển, do là những người của ba nghề lớn này cần địa vị và bối cảnh đặc thù, bởi vậy, những nhân viên quan trọng trong quân đội cảnh sát đến chính phủ Trung Quốc đã trở thành kẻ hưởng lợi chủ yếu nhất của ba nghề lớn ấy. Bởi vì nếu không có chính phủ cho đến quân đội cảnh sát làm chỗ chống lưng thì ba nghề lớn này ở Trung Quốc cất một bước đi cũng khó. Quan chức tham gia vào tình dục, đánh bạc, ma tuý, trên thế nào dưới như thế, khiến cho người Trung Quốc đã coi hút ma tuý, buôn ma tuý, đánh bạc, mại dâm chơi gái như chuyện thường, thậm chí đích thân tham dự, không cảm thấy bản thân đang làm chuyện xấu.

Khi cảm thụ cuộc sống hiện đại do kinh tế phát triển mang đến, người ta thấy đau lòng nhất chính là sau khi đạo đức xã hội trượt dốc đã đem đến một loạt các vấn đề xã hội. Có người hình dung “đức dục, trí dục, thể dục” trong sách giáo khoa trước kia mà Đảng Cộng sản đã tuyên truyền ngày nay đã phát triển toàn diện, đã sớm biến thành “quyền dục, tiền dục, tình dục” đã khởi lên toàn diện trong thực tiễn xã hội, được mệnh danh là “tiến sĩ ba chơi (chơi quyền, chơi tiền, chơi phụ nữ)”. Hàng giả thịnh hành, sắc tình tràn lan, xã hội đen phát triển sôi động, quan lại thương nhân câu kết, cảnh sát và kẻ cướp cùng một hội, mà khó khăn của người dân thì không có ai quan tâm, sự công chính xã hội càng không được phát triển. Trong xã hội như thế này, không có đạo đức ước thúc ở bên trong, không có dư luận ước thúc từ bên ngoài, không có pháp luật ước thúc từ bên ngoài, mỗi cá nhân đều là người bị hại.

Comments

Popular posts from this blog

Chương 3 : Các thủ đoạn nhồi nhét : Lợi dụng các văn nhân của tà đảng để ca ngợi công lao của ác đảng

Chương 3 : Các thủ đoạn nhồi nhét : Cưỡng chế người dân đọc sách của Marx, Engels, Lenin, Stalin, và Mao Trạch Đông

Chương 2: Cải tạo tư tưởng một cách hệ thống : Phê phán Nho – Thích – Đạo