Chương 4: Biểu hiện của người ta sau khi bị cải tạo tư tưởng : Không sợ Trời không sợ Đất, mở miệng là nói dối, miệng đầy lời dơ bẩn, hành vi thấp hèn

 

3. Không sợ Trời không sợ Đất, mở miệng là nói dối, miệng đầy lời dơ bẩn, hành vi thấp kém

Trung Quốc vốn nổi tiếng thế giới là “lễ nghi chi bang” (mảnh đất lễ nghi). Kính Trời tin Thần, tin vào thiện ác hữu báo là truyền thống mấy nghìn năm của người Trung Quốc, cho dù cả những người không có tín ngưỡng rõ ràng, cũng tin vào sự tồn tại của “ông Trời”. Theo truyền thống thì người Trung Quốc tuân theo lời dạy của Thần Phật, Thánh hiền mà nỗ lực hoàn thiện nhân cách của mình. Thái độ của người ta đối với Thiên, Địa, Nhân là cung kính, khiêm tốn, cả xã hội thông qua lễ nghi mà quy phạm.

Nhưng điều mà Đảng Cộng sản cổ xúy là “không sợ Trời không sợ Đất”. Chỉ có cải tạo con người thành không sợ gì cả, thì việc Trung Cộng lợi dụng để đoạt quyền, làm vận động mới thuận tiện. Nếu như người với người có cái lễ, đối với vật có quý tiếc, đối với Trời đất Thần linh có sự kính sợ, người như vậy sẽ không coi việc “nghe lời đảng” là ở vị trí số một. Cho nên trong quá trình xây dựng văn hóa đảng, thuyết vô thần mà Trung Cộng nhồi nhét có thể khiến người Trung Quốc rời xa sự kính sợ của tổ tiên Hoa Hạ đối với Trời đất Thần linh và sự quan tâm đến kết cục của sinh mệnh; tư tưởng đấu tranh của nó lại khiến người Trung Quốc cũng không tin vào lời dạy xưa rằng “Bích lập thiên nhẫn, vô dục tắc cương, hải nạp bách xuyên, hữu dung nãi đại” (Vách đứng nghìn trượng, vô dục tất mạnh mẽ, biển nạp trăm sông, bao dung nên to lớn), cũng không tin vào lời dạy “Kỷ sở bất dục, vật thi vu nhân” (Điều ta không muốn, chớ làm cho người); chủ nghĩa duy vật của nó lại khiến người Trung Quốc triệt để vứt bỏ cái “Đạo” để thăng hoa về nhân cách, siêu việt về tâm linh mà tổ tiên vẫn luôn tìm kiếm bấy lâu nay, coi sự “từ bi” đến từ phương Đông và “bác ái” đến từ phương Tây thành “thuốc phiện tinh thần làm mê muội nhân dân” và “tấm màn che sự giả tạo”. Trong ngôn ngữ của người ta đầy những lời hùng hổ hăm dọa “người nếu phạm ta, ta ắt phạm người”, đầy những sự cuồng ngạo “đấu Trời đấu Đất”, cử chỉ thô tục, miệng đầy lời dối trá và dơ bẩn, vậy mà họ lại không cho là hổ thẹn, còn tưởng là vinh quang.

1) Mở miệng liền nói dối

Trên thế giới nói chung, quốc gia nào cũng đều có người nói dối, thế nhưng, cơ chế xã hội của rất nhiều quốc gia là lấy thành tín làm cơ sở, trọng chữ tín là vốn liếng về mặt xã hội để một người có thể đặt chỗ đứng lâu dài. Tuy nhiên dưới sự thống trị của Trung Cộng, dối trá trở thành “cái gốc lập quốc” của xã hội Trung Cộng, toàn xã hội dựa vào nói dối để chống đỡ, nói dối trở thành kỹ năng cơ bản để sinh tồn của người ta trong xã hội.


Ảnh: Epoch Times

Lịch sử của Trung Cộng chính là một bộ sử dối trá, nói dối là trụ cột để duy trì sự thống trị của Đảng Cộng sản. Bất kể là công khai, hay lén lút, bất kể là đối nội, hay đối ngoại, bất kể là chuyện lớn, hay là chuyện nhỏ, khắp nơi đều đầy rẫy lời nói dối. Trong sự đấu tranh chính trị, trong những tấm gương của Trung Cộng, người ta cũng đã học cách nói dối. Vì để phù hợp với yêu cầu của đảng, tránh khỏi việc bị trở thành đối tượng bị tấn công khi vận động [chính trị], người ta phải hùa theo đảng mà nói dối, theo đó hô hào “vượt qua Anh đuổi kịp Mỹ”, “một mẫu cho sản lượng vạn cân”, “một hình thế tốt đẹp”. Ở Trung Quốc Đại lục có lưu truyền một bài thơ châm biếm như thế này: “Thôn lừa xã, xã lừa huyện, hạ cấp lừa thượng cấp, tỉnh trưởng lừa trung ương, từng cấp từng cấp lừa lên trên, lừa một mạch cho đến tận Chính phủ.” Cứ nói mãi như thế, người ta nghe quen đến mức trở thành tự nhiên, như thể nói dối là việc hợp với lẽ Trời, toàn thế giới và xã hội đều vận hành như thế.

Bộ phim “Điện thoại di động” đã phản ánh một khía cạnh của hiện tượng xã hội cứ mở miệng là nói dối: Bởi vì đã có tình nhân, cho nên phải dày công biên tạo lời nói dối để lừa người khác, gia đình đã trở thành chiến trường lừa gạt và bóc mẽ. Không chỉ vậy, rất nhiều lời nói dối kinh điển được diễn xuất trong phim đã trở thành lời quen dùng trong sinh hoạt. Toàn xã hội tồn tại chứng sợ điện thoại di động, không phải là sợ bản thân điện thoại, mà là bởi vì điện thoại di động dễ dàng vạch trần lời nói dối. Đạo diễn của bộ phim có câu: “Có rất nhiều lúc nói dối nâng đỡ cho cuộc sống của chúng ta.”

Trong quan niệm truyền thống, Đạo gia giảng làm người “Chân”, Phật gia giảng người xuất gia không được nói dối, Nho gia giảng Tín, đều cho rằng nói dối là không đúng. Khổng Tử coi “Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín” là Ngũ thường. Trong đó thành tín giữa người với người, là một trong những mỹ đức quan trọng nhất của con người. Cho nên Khổng Tử cũng nói: “Người mà không có Tín, chẳng làm chi nên việc”, có nghĩa là nếu như con người không có tín nhiệm, thì chẳng biết họ còn có thể làm được gì.

Đạo lý cai trị quốc gia chẳng phải cũng như vậy sao. Học trò của Khổng Tử là Tử Cống từng hỏi thầy về biện pháp trị quốc. Khổng Tử nói: “Một là khiến người dân đủ ăn đủ mặc; hai là quốc gia sở hữu quân đội lớn mạnh; ba là có được lòng tin của thần dân.” Tử Cống hỏi: “Nếu như bất đắc dĩ phải bỏ đi một điều, thì nên bỏ đi điều gì trước?” Khổng Tử nói: “Bỏ đi quân đội.” Tử Cống lại hỏi: “Nếu như bỏ đi một điều nữa thì thế nào?” Khổng Tử đáp: “Bỏ đi ăn mặc, thà không đủ ăn, cũng phải giữ vững được lòng tin. Nếu như không có được lòng tin của thần dân, quốc gia sớm muộn cũng sẽ diệt vong.”

Bởi vì thuyết duy vật nhấn mạnh vật chất là đệ nhất tính, nên người ta suy xét vấn đề đều là xuất phát từ lợi ích vật chất. Sau khi quan niệm truyền thống bị phê phán phủ định, người Trung Quốc không có bất kể sự kiêng kỵ nào đối với nói dối, cũng chẳng còn ước thúc nào từ đạo đức nữa. Cả thể hệ văn hóa đảng lại là cổ vũ nói dối, người ta nói dối chẳng có bất kể cảm giác tội lỗi gì. Nói dối đã biến thành một loại hành vi bản năng mà không có bất kể lý do gì. Chỉ cần có lợi với mình thì bất chấp tất cả, không sợ Trời không sợ Đất, vì vậy chuyện dùng nói dối để đạt được lợi ích của bản thân đã trở thành hiện tượng phổ biến, không chỉ mở miệng là nói dối, hơn nữa trong khi nói dối đã tính đến tiếp theo sẽ nói thế nào làm thế nào để che đậy lời nói dối đó.

Còn có người quy kết hiện tượng xã hội “nói dối, không coi trọng thành tín”, thành bản tính thị trường chỉ biết có lợi vốn là đặc sản của “giai cấp tư sản” phương Tây. Song kinh tế thị trường ở các nước phát triển phương Tây đã có lịch sử mấy trăm năm rồi, mà những nước này cũng không hề bởi vì thực hành kinh tế thị trường mà trở thành xã hội dối trá. Hoàn toàn ngược lại, các nước phương Tây hết sức chú trọng thành tín, thành tín là phẩm chất cá nhân không thể thiếu và tài phú quan trọng nhất của đời người. Ở phương Tây, thành tín đã trở thành chuẩn tắc cơ bản nhất trong giao lưu kinh tế, cũng là mục tiêu theo đuổi của công ty. Khi phát sinh xung đột giữa lợi ích và tín nghĩa, người ta sẽ lựa chọn tín nghĩa, bởi vì chỉ có tín nghĩa mới có thể mang lại lợi ích được lâu dài, nhất thời lừa gạt sẽ thu được lợi ích ngắn hạn, nhưng cuối cùng sẽ trở thành trở ngại cho sự phát triển của công ty. Ở các nước phương Tây, ai không coi trọng thành tín, qua thời gian sẽ khó mà cất bước.

Việc văn hóa đảng khiến con người nói dối còn biểu hiện ở trong hai hệ thống lời nói, chính là một bộ ở trên đài, một bộ ở dưới đài. “Thi hành lấy đức trị quốc, … triển khai sâu rộng đấu tranh phản hủ bại.” (Trích lời Bí thư tỉnh ủy Quý Châu Lưu Phương Nhân, nhận hối lộ 6,6 triệu NDT, tù chung thân), “Tâm nguyện lớn nhất của tôi là trong vòng 5 năm tới giải quyết được vấn đề bần cùng của 160 vạn nhân khẩu mà chưa giải quyết được.” (Trích lời Tỉnh trưởng tỉnh Vân Nam Lý Gia Đình, nhận hối lộ 18 triệu tệ, tử hình hoãn thi hành), “Nghĩ tới việc Quảng Tây còn có 7 triệu người chưa thoát nghèo, tôi làm chủ tịch đây cũng cảm thấy ngủ không ngon.” (Trích lời Phó ủy viên trưởng Ủy ban Thường vụ Đại hội đại biểu Nhân dân toàn quốc Thành Khắc Kiệt, nhận hối lộ 20 triệu tệ, tử hình), “Công tác chống hủ bại thúc đẩy liêm khiết một khắc cũng không thể buông lỏng, luôn luôn giữ đầu não thanh tỉnh, cờ xí tươi sáng, thái độ kiên quyết.” (Trích lời Bí thư thị ủy Thượng Hải, Ủy viên Bộ chính trị Trần Lương Vũ, liên quan đến vụ án Quỹ bảo trợ xã hội 1 tỷ NDT, bị cách chức điều tra)… Cũng vậy, dân chúng phổ thông cũng tồn tại hai bộ mặt, hai hệ thống lời nói. Khi biểu đạt thái độ chính trị, viết báo cáo học tập chính trị thì sử dụng một bộ ngôn ngữ chính trị lạnh ngắt, còn trong cuộc sống thì sử dụng một bộ ngôn ngữ khá nhân tính hóa.

Ảnh: Epoch Times

Người người mở miệng là nói dối, vừa là vì để thích ứng với môi trường chính trị của Trung Cộng, đồng thời, cũng đã biến thành tập quán tư duy của người ta, nói dối đã tạo thành khủng hoảng về thành tín trong xã hội, người dân cuối cùng không thể không nuốt quả đắng sa đọa về đạo đức xã hội. Một xã hội hủ bại toàn diện, giả dối toàn diện, bản thân người ta đều nói “Pháp bất trách chúng” (luật pháp không phạt đám đông), ai cũng không biết nên thu thập mớ bòng bong mà Trung Cộng tạo ra này như thế nào.

2) Văn hóa đảng dạy người ta học lời nói dơ bẩn lưu manh

Trừ việc nói dối ra, miệng đầy lời nói dơ bẩn cũng là một nét đặc sắc trong văn hóa đảng. Quan niệm truyền thống đo lường tốt xấu thì xét ở phẩm chất đạo đức, mà chủ nghĩa duy vật lịch sử của Trung Cộng là dựa vào tiêu chuẩn “cách mạng” và “giai cấp” để phân người tốt và người xấu, một cước đã đạp truyền thống lễ nghi của Trung Hoa xuống đất.

Công xã Paris là chính quyền chuyên chính của giai cấp vô sản đầu tiên trong lịch sử thế giới, có thể nói là tổ tông của Đảng Cộng sản. Những người xã viên công xã Paris tự xưng là vô sản lưu manh theo lịch sử ghi lại là lưu manh chính cống, năm đó những người chưa được giáo dục này, những kẻ du côn lưu manh của xã hội dựa vào bắt gà trộm chó sống qua ngày đã lấy danh nghĩa chủ nghĩa cộng sản để cướp sạch thành phố Paris. Lấy cảm hứng từ khởi nghĩa lưu manh công xã Paris và được cộng sản Liên Xô bồi dưỡng, Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng dựa vào những kẻ vô sản lưu manh mà lập nghiệp. Trung Cộng cho rằng “lưu manh cặn bã là tầng lớp vứt đi của xã hội, nhưng trong cách mạng nông thôn, thì họ là dũng cảm nhất, triệt để nhất, kiên quyết nhất”. Trong “Phân tích các giai cấp xã hội Trung Quốc” Mao Trạch Đông cũng không dè dặt về tác dụng cách mạng của du côn vô lại mà còn lớn tiếng hô lên vô lại [làm] vận động “rất là tốt”. Trong “Bài giảng các vấn đề liên quan đến triết học” ngày 18/08/1964, Mao còn nói: “Nào là Đại học Bắc Kinh, Đại học Nhân dân! Hay là cái đại học nào đi nữa, ta chính là đại học Lục Lâm [7], ở đó mà học được một chút.”


Tháng 10 năm 1927, Bành Phái lãnh đạo những kẻ vô sản lưu manh ở huyện Hải Phong tỉnh Quảng Đông làm bạo loạn vũ trang, thành lập chính quyền Xô-viết nông thôn đầu tiên (Ảnh: Epoch Times)

Trung Quốc cổ đại cũng có ví dụ về lưu manh đắc được thiên hạ, thời trẻ Lưu Bang ở huyện Bái làm đình trưởng, nổi danh nhờ háo sắc ham rượu. Nhưng sau khi ông ta đoạt được chính quyền, cũng hiểu được đạo lý rằng được thiên hạ trên lưng ngựa, nhưng không thể trị thiên hạ trên lưng ngựa được. Ông ta ra lệnh cho một nhà nho là Thúc Tôn Thông thông tri cho môn đồ của mình lại một chỗ, chế định ra triều nghi (nghi lễ triều đình), dùng tư tưởng Đạo gia, dựa vào đạo đức nhân nghĩa, thanh tĩnh vô vi để lệnh cho thiên hạ tu dưỡng sinh sống. Lưu manh thời cổ cũng biết được duy trì chính quyền phải dùng văn hóa chính thống chứ không thể dùng thủ đoạn lưu manh.

Nhưng sau khi nắm quyền, Trung Cộng lại tiếp tục dựa vào thủ đoạn lưu manh để thống trị quốc gia. Trong thể hệ văn hóa đảng, khắp nơi đầy những giọng điệu cường đạo ác bá lưu manh, đọc sách biết đạo lý thì là kẻ theo “phong kiến, tư bản, chủ nghĩa xét lại”, phần tử tri thức là “xú lão cửu” [8], còn những kẻ thô bỉ hạ lưu trở thành [nhóm người] mang “tinh thần cách mạng” nhất. Công nhân tay đầy chai sạm là tâm ‘hồng’ nhất [cách mạng nhất], nông dân chân dính phân bò là thơm nhất. “Mặc dù tay của bọn họ là đen, dưới chân có phân bò, nhưng so với phần tử tri thức giai cấp tiểu tư sản thì vẫn còn sạch sẽ chán.” Nếu anh cảm thấy phân bò thối, vậy thì cho thấy rằng cảm tình giai cấp của anh có vấn đề, cho nên dường như tất cả phần tử tri thức đều phải nói rằng phân bò là thơm, càng ngửi càng thơm. Trải qua mấy chục năm Trung Cộng tuyên dương ca tụng, văn hóa thô bỉ lưu manh đã ngấm dần vào cuộc sống hàng ngày, đã cải tạo tập tính sinh hoạt của người ta, khiến người ta biến thành miệng đầy lời dơ bẩn, hành vi thấp kém. Tại các diễn đàn trên Internet, có thể nói các hội thoại đầy những lời dơ bẩn và chửi thề là một nét đặc sắc của các trang web tiếng Trung. Vốn dĩ có thể bình tâm tĩnh khí mà thảo luận, lại biến thành nơi mà người nào cũng dùng các loại ngôn ngữ cay độc hạ lưu để tiến hành chửi rủa và giở thói ngang ngược công kích người khác. Dưới sự lừa dối của thù hận và “chủ nghĩa ái quốc” nhỏ hẹp do Văn hóa đảng nhồi nhét, các chủ đề như dân chủ, nhân quyền, eo biển Đài Loan, Pháp Luân Công, tôn giáo tín ngưỡng, quan hệ ngoại giao v.v. đều có thể trở thành những vật hi sinh bị phỉ báng chửi rủa.

Ảnh: Epoch Times

Từ ngôn ngữ lưu manh của người lãnh đạo cao nhất, như là “tụt quần”, “cắt đuôi”, “đánh rắm” được viết vào sách giáo khoa, cho đến việc cổ vũ hành vi và ngôn ngữ lưu manh trong vận động toàn dân cách mạng văn hóa, và đến việc sau thập niên 80 coi tác phẩm điện ảnh về trùm lưu manh kiểu như “Bến Thượng Hải” là tấm gương làm mẫu, lưu manh lại có thể công khai trở thành đối tượng để mọi người nhìn vào và bắt chước.

Trong xã hội hiện nay, tín ngưỡng thiếu vắng, lý tưởng bị diệt mất, quyền lực, kim tiền trở thành mục tiêu theo đuổi và là điều hưng phấn duy nhất. Người ta chịu ảnh hưởng của học thuyết tiến hóa, kẻ mạnh tranh giành ức hiếp người khác, cho rằng thành công phải cần đến “khí chất thổ phỉ”. Một người thường không có quyền lực đánh người một cách tùy tiện, nên chửi lời dơ bẩn thì có thể khiến kẻ yếu nể sợ, có tác dụng khiến cho bản thân có vẻ to gan: “Ta là lưu manh ta còn sợ gì ai?” Đúng là phác họa một cách chân thực cái tâm thái không sợ Trời không sợ Đất đằng sau những lời nói dơ bẩn.

3) Văn hóa đảng khiến cử chỉ hành vi của con người thấp kém

Nếu như bạn trực tiếp nói với một vị là người Trung Quốc đương đại, rằng hành vi của anh thấp kém, rất có khả năng là trong 10 người thì có đến 9 người sẽ cảm thấy rằng bạn có vấn đề, rằng hành vi của mình hết sức bình thường, thấp kém ở chỗ nào?

Tháng 09 năm 2006, trang web chính thức Cục Du lịch quốc gia Trung Quốc đã công bố những hành vi không văn minh phổ biến của du khách Đại lục khi du lịch trong và ngoài nước do công chúng phản ánh.

Những hành vi không văn minh thường thấy của công dân Trung Quốc khi ra nước ngoài bao gồm:

1, Tùy tiện vứt rác, vứt đồ; ở đâu cũng có thể nhổ đờm, hỉ mũi, nhổ kẹo cao su, đi vệ sinh không xả nước, không chú ý vệ sinh để lại vết bẩn;

2, Không đếm xỉa đến biển cấm hút thuốc, muốn hút thì liền hút, gây ô nhiễm không gian công cộng, gây hại cho sức khỏe của người khác;

3, Khi tham gia phương tiện giao thông công cộng thì tranh cướp xô đẩy, khi mua sắm, tham quan thì chen lấn gây tắc, khi xếp hàng đợi thì vượt qua vạch kẻ vàng;

4, Ở những nơi công cộng như  trên xe, thuyền, máy bay, nhà ăn, khách sạn, điểm du lịch thì lớn tiếng nghe gọi điện thoại, hô hoán bạn bè, sai quyền hành lệnh, tụ tập gây ồn ào;

5, Ở những nơi tôn giáo như giáo đường, chùa chiền thì vui đùa, cười đùa, không tôn trọng phong tục của cư dân địa phương;

6, Ở nơi đông người thì tháo tất cởi giày, cởi trần phanh ngực, xắn quần đến đầu gối trở lên, ngồi bắt chéo chân này lên chân kia, sau khi cơm no rượu say thì xỉa răng không che miệng, đi ra ngoài mặc áo ngủ hoặc quần áo không chỉnh tề, khó coi.

7, Nói lời dơ bẩn liên thiên, cử chỉ thô lỗ hách dịch, khi gặp phải tranh chấp hay chuyện không vừa ý thì phát tiết, ngôn ngữ cay độc nói thẳng vào mặt, thiếu hụt tu dưỡng xã giao cơ bản;

8, Ở cửa hàng không giảm giá thì vẫn cứ mặc cả, ép buộc lôi kéo người nước ngoài chụp ảnh giúp, chụp ảnh cùng;

9, Đi lại ở tụ điểm mại dâm, tham gia hoạt động đánh bạc;

10, Không tiêu thụ nhưng lại chiếm cứ khu vực tiêu thụ trong thời gian dài, khi ăn tiệc đứng thì lãng phí, khi rời khỏi nhà khách hoặc khách sạn thì lấy đi những thứ không phải tặng phẩm, sau khi hưởng thụ phục vụ thì không trả tiền tip, tham chiếm những cái lợi nhỏ.

Ở trong nước [Trung Quốc] thường gặp những hành vi không văn minh, tương tự với 10 điều nêu trên, nhưng có nhiều nội dung hơn chút. Ví như, khắc vẽ bừa bãi lên văn vật của cảnh quan, thiết bị phục vụ, giẫm lên nơi cấm đi lại (như thảm cỏ trong công viên), trèo lên bẻ ngắt hoa và cây cối; không nghe theo quy định mà cho ăn, ném đánh động vật, gây nguy hại cho an toàn của động vật. Một người khách du lịch bình thường được coi là có chút tiền, địa vị xã hội và được giáo dục trình độ cũng khá cao, mà còn như vậy, thì một người sinh sống trong xã hội Trung Quốc bình thường sẽ càng không thể nằm ngoài những hành vi thấp kém này.

Người ở những nơi khác trên thế giới cũng như vậy chăng? Kỳ thực không hẳn. Câu nói “Làm ơn giữ yên lặng” ở nhà thờ Đức Bà Paris [viết bằng tiếng Trung] chỉ để cho người Trung Quốc đọc, những người Trung Quốc đi qua nhà thờ Đức Bà Paris đều sẽ thấy được bảng thông báo bằng tiếng Trung này. Ở Paris, những chỗ có tiếng Trung ở nơi công cộng cũng không nhiều, mà du khách các quốc gia khác bao gồm du khách nước Pháp lại không hề được “đối đãi đặc biệt” như vậy. Trong toilet của Hoàng cung Thái Lan có bảng ghi tiếng Trung bắt mắt, “Làm ơn xả nước sau khi vệ sinh”. Thùng rác ở Trân Châu cảng ở Mỹ đều có biển bằng tiếng Trung, “Thùng rác tại đây”. Kiểu bảng thông báo chỉ viết bằng tiếng Trung giản thể này, cũng có ở những điểm đến chủ yếu của du khách người Trung Quốc tại nước ngoài – Các nước như Pháp, Đức, Nhật Bản, Thái Lan, Singapore đều xuất hiện thường xuyên.

Người Trung Quốc trước kia có như vậy chăng? Trung Quốc được coi là “lễ nghi chi bang” đã có mấy nghìn năm lịch sử. Trong Lục nghệ [9] truyền thống “Lễ Nhạc Xạ Ngự Thư Số” của Trung Quốc, chữ “Lễ” đứng đầu, đã đủ để nói lên rằng người Trung Quốc coi trọng truyền thống lễ nghi. Trong “Luận Ngữ” có một câu chuyện cổ, Khổng Tử cảnh cáo con trai Khổng Lý rằng: “Bất học lễ, vô dĩ lập.” Ý nghĩa là, nếu như không học lễ, thì không có cách nào để lập chỗ đứng. Trong cuốn “Tam tự kinh” từng được biết đến rộng rãi có chỉ ra, làm con cái, từ bé đến khi lớn lên, phải nên thành thục các loại lễ tiết trong các trường hợp khác nhau, học tập những việc lễ tiết nghi văn. Trong lịch sử, một số “gia huấn”, “học quy” nổi tiếng đều có một lượng lớn quy phạm lễ nghĩa liên quan đến các phương diện như ăn, mặc, ở, đi lại, đối nhân xử thế hàng ngày. Giao lưu giữa người và người, xưng hô đối phương thế nào, hai người nói chuyện với nhau thì đứng như thế nào, đón tiếp thế nào, v.v.. đều có quy định về lễ. Ngay cả là ăn cơm, cũng nên thể hiện ra tu dưỡng của bản thân trong từng cử chỉ chân tay, gọi là ‘thực lễ’. Hành vi hợp với lễ, là có biểu hiện của tu dưỡng, ngược lại ắt không thể bước đến nơi thanh nhã. Có thể nói, khi đó chủ lưu của xã hội là yêu cầu văn minh, tu dưỡng, lễ nghi, hành vi thanh cao nhã nhặn đúng mực, nếu như muốn được xã hội thừa nhận, thì phải tu thân dưỡng đức mà quy phạm hành vi của bản thân.

(Ảnh: Epoch Times)

Từ thời Đường Tống trở về trước, “văn hóa Trung Hoa” là đại từ thay thế cho ưu nhã, Trung Quốc là nước xuất khẩu lễ nghi. Lịch sử ghi chép thương nhân Trung Quốc đến Đông Nam Á, được coi là thượng nhân – người đến từ “lễ nghi chi bang”, thậm chí còn miễn phí ăn ở. Nhật Bản và Triều Tiên cũng luôn chịu ảnh hưởng sâu đậm của văn hóa thời nhà Đường. Hàn Quốc và Nhật Bản hiện tại vẫn đang kế thừa một vài quy phạm lễ nghi đến từ Trung Quốc, người ta còn khá coi trọng việc sử dụng ngôn từ và cử chỉ nhã nhặn thể hiện ý kính trọng.

Trong văn hóa đảng của Trung Cộng còn có bộ phận [văn hóa] kẻ yếu làm mồi cho kẻ mạnh theo thuyết tiến hóa, kích động người ta đấu đá lẫn nhau, không hề đề xướng bộ phận [văn hóa] tôn trọng đối với cá nhân, tuyên dương sự thô bỉ, trong hành vi của cá nhân, không nghĩ đến người khác, tùy tùy tiện tiện, chuyện ta ta làm, làm sao cho thuận tiện thì làm.

Dân chúng Đại lục hiện nay đối với nhận thức về “tình dục”, càng là “hợp thời”, “hướng lên” đến độ “tình dục”, “gia đình”, “hôn nhân” đối đãi tách biệt, coi “tình dục” là một hoạt động giải trí của xã hội, rất nhiều người còn cho rằng là tiến bộ. Cái kiểu hành vi thấp kém này đã dẫn đến sự hỗn loạn về luân lý xã hội, đã phá hoại quan niệm gia đình của người Trung Quốc mấy nghìn năm qua. Có người cảm thấy người nước ngoài chẳng phải cũng rất cởi mở về giới tính sao? Thế nhưng, ở xã hội phương Tây có ước thúc của tôn giáo, đạo đức và pháp luật nên sự tình sẽ không quá đáng quá, hiện tại ngay cả người phương Tây đến Đại lục, đều cảm khái rằng sự cởi mở về giới tính ở Đại lục đã vượt quá cả phương Tây.

Trong tâm lý học có một hiện tượng nổi tiếng, chính là hiệu ứng đám đông. Nó cho rằng cá nhân luôn có khuynh hướng theo cách nghĩ hoặc thái độ của đa số, bảo trì nhất trí nhận thức và hành vi theo đa số một cách bất tri bất giác để chứng minh rằng bản thân họ không cô lập mà là tồn tại trong một quần thể. Cũng vậy, trong xã hội mà việc văn hóa đảng thô bỉ chiếm chủ đạo như thế này, coi những người có thói quen vệ sinh kém, trình độ giáo dưỡng thấp thành tấm gương về hành vi, nếu người ta không noi theo, thì chính mình cũng cảm thấy là lạ, không hợp với xung quanh. Người ta đã hình thành thói quen nên không cảm thấy hành vi của mình đã bị văn hóa đảng cải biến đến mức thấp kém.

Trung Cộng dựa vào phương thức tư duy chọn lọc tự nhiên, kẻ thích nghi thì sinh tồn của thuyết tiến hóa, cho rằng những thứ mới là đã trải qua chọn lọc, phù hợp với quy luật phát triển lịch sử, là tốt hơn so với cái cũ, cổ nhân đều là lạc hậu. Bởi vậy, người ta coi văn hóa đảng với đúng đắn chính trị, hình thái ý thức của Trung Cộng là tiêu chuẩn chính xác mà tuân theo, không phân biệt được tốt xấu mà tiến hành phá hoại đối với tư tưởng truyền thống, văn hóa truyền thống, phong tục truyền thống, tập quán văn minh truyền thống, giáo dưỡng lễ nghi bị phê phán là chủ nghĩa phong kiến, văn minh sạch sẽ gọn gàng thì bị coi là tư bản chủ nghĩa mà phỉ nhổ, văn minh của “lễ nghi chi bang” kéo dài mấy nghìn năm đã bị phá hủy rồi.

Comments

Popular posts from this blog

Chương 3 : Các thủ đoạn nhồi nhét : Lợi dụng các văn nhân của tà đảng để ca ngợi công lao của ác đảng

Chương 3 : Các thủ đoạn nhồi nhét : Cưỡng chế người dân đọc sách của Marx, Engels, Lenin, Stalin, và Mao Trạch Đông

Chương 2: Cải tạo tư tưởng một cách hệ thống : Phê phán Nho – Thích – Đạo